✨Yorktown (lớp tàu sân bay)

Yorktown (lớp tàu sân bay)

Lớp tàu sân bay _Yorktown_ bao gồm ba tàu sân bay được Hoa Kỳ chế tạo, hoàn tất và đưa vào sử dụng không lâu trước Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Chúng phải chịu đựng gánh nặng hoạt động vào giai đoạn đầu của cuộc chiến này tại Thái Bình Dương; và chiếc duy nhất còn sống sót trong cuộc chiến, Enterprise, trở thành chiếc tàu chiến được tặng thưởng nhiều nhất trong suốt lịch sử của Hải quân Hoa Kỳ. Biệt danh của USS Enterprise (CV-6) là "Big E"

Phát triển

Những bài học có được khi hoạt động cùng với những tàu sân bay lớn vốn được cải biến từ tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Lexington, khi so sánh với chiếc Ranger nhỏ hơn vốn được chế tạo từ đầu như một tàu sân bay, đã chỉ cho hải quân Mỹ thấy rằng các tàu sân bay lớn có độ linh hoạt trong hoạt động và khả năng sống sót tốt hơn các tàu sân bay nhỏ. Do kết quả của những kinh nghiệm này, Hải quân Mỹ đã chế tạo các tàu sân bay YorktownEnterprise, và đưa chúng ra hoạt động vào các năm 1937 và 1938 tương ứng. Chúng là những tàu sân bay nhanh và linh hoạt, có thể mang theo và đưa ra hoạt động trên 80 máy bay chiến đấu, gần tương đương với lớp Lexington có trọng lượng rẽ nước lớn hơn rất nhiều.

Cùng với việc bổ sung thêm tàu sân bay Wasp tải trọng 14.700 tấn, một phiên bản thu nhỏ của lớp, Hải quân Mỹ đã sử dụng hết hạn ngạch tải trọng 135.000 tấn về tàu sân bay mà Hiệp ước Hải quân Washington cho phép. Việc hủy bỏ các hiệp ước hải quân vào năm 1937 cho phép Hoa Kỳ bắt đầu chế tạo nhiều tàu sân bay, và chiếc đầu tiên trong chương trình tàu sân bay mới này là Hornet, một chiếc khác trong lớp, được đưa ra hoạt động vào năm 1941. Các cải tiến trên thiết kế của lớp Yorktown và sự tự do không bị ràng buộc bởi những giới hạn của các hiệp ước hải quân đã đưa đến việc xuất hiện lớp Essex.

Một điểm khác biệt ít thấy là, lớp Yorktown được trang bị một máy phóng trên sàn chứa máy bay. Kiểu máy phóng này bị loại bỏ trên các lớp tàu sân bay tiếp theo sau vì chúng tương đối vô ích trong hoạt động. Máy phóng trên sàn chứa máy bay của EnterpriseHornet được tháo bỏ vào cuối tháng 6 năm 1942. Cả ba chiếc tàu sân bay trong lớp Yorktown đều được chế tạo bởi hãng Newport News Shipbuilding Company tại Newport News, Virginia.

Lịch sử hoạt động

Cả ba chiếc tàu sân bay trong lớp đều nổi bật vì đã gánh chịu phần lớn gánh nặng của chiến tranh vào những tháng đầu tiên của Chiến tranh Thế giới thứ hai tại Thái Bình Dương, đáng kể nhất là trong trận chiến biển Coral, trận Midway và chiến dịch Guadalcanal. Trong chiến dịch cuối cùng kể trên, Hornet rồi sau đó là Enterprise có vai trò nổi bật vì là những tàu sân bay hạm đội duy nhất còn hoạt động trong Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ.

Máy bay của Enterprise từng tham gia hoạt động trong trận Trân Châu Cảng khi một phi vụ tuần tiễu của nó đã đụng độ với cả máy bay tiêm kích Nhật Bản lẫn hỏa lực phòng không của Mỹ khi họ đến nơi vào ngay giữa cao điểm của cuộc chiến đấu. Sau đó Enterprise tham gia cuộc tấn công đầu tiên chống lại lực lượng Nhật, tung ra các cuộc không kích xuống quần đảo Marshall, đảo Wake và đảo Marcus.

Yorktown được chuyển sang Thái Bình Dương vào ngày 16 tháng 12 năm 1941 và sau đó tiến hành không kích xuống quân đảo Gilbert trong cùng một nhiệm vụ như của chiếc Enterprise. Cùng với tàu sân bay Lexington, nó tiến hành không kích các căn cứ Nhật tại New Guinea, rồi tham gia trận chiến biển Coral. Máy bay của nó đã giúp đánh chìm tàu sân bay Shōhō và làm hư hại chiếc Shōkaku. Bị hư hại bởi máy bay Nhật xuất phát từ tàu sân bay, Yorktown quay trở về Trân Châu Cảng và được vội vã sửa chữa kịp thời để tham gia trận Midway.

Hornet trải qua những tháng đầu tiên của cuộc chiến tiến hành huấn luyện tại Norfolk, Virginia trước khi được giao nhiệm vụ tham gia vụ Đột kích Doolittle. Nhận lên tàu một phi đội máy bay ném bom B-25 Mitchell và được hộ tống bởi Enterprise, chiếc tàu sân bay đã tung ra cuộc không kích đầu tiên xuống các hòn đảo chính quốc Nhật Bản.

Cả ba chiếc tàu trong lớp đã cùng tham gia hoạt động trong trận Midway từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 6 năm 1942, máy bay của EnterpriseYorktown đã đánh chìm được toàn bộ bốn tàu sân bay hạm đội Nhật tham gia trận này, trong khi Hornet giúp đỡ vào việc đánh chìm một tàu tuần dương hạng nặng và làm hư hại nặng một chiếc khác. Cả ba chiếc tàu sân bay Mỹ cũng chịu đựng những thiệt hại đáng kể về các đội bay, đáng kể nhất là Phi đội Ném ngư lôi 8 của Hornet đã mất 15 máy bay và chỉ có một thành viên đội bay còn sống sót. Yorktown bị hư hại bởi bom và ngư lôi và bị bỏ lại vào ngày 4 tháng 6. Được cứu hộ và sửa chữa sau đó, chiếc tàu sân bay lại bị tàu ngầm Nhật phát hiện và đánh chìm vào ngày 7 tháng 6 năm 1942.

Enterprise được bố trí trong cuộc tấn công đổ bộ lên Guadalcanal và đã tham gia các cuộc không kích chuẩn bị lên hòn đảo. Nó bị hư hại trung bình trong trận chiến Đông Solomons nhưng được sửa chữa kịp thời để cùng với Hornet tham gia trận chiến quần đảo Santa Cruz. Hornet bị hư hại nặng trong trận này và phải bị bỏ lại. Những nỗ lực đánh đắm nó do các tàu hộ tống thực hiện bị thất bại, và con tàu bị bỏ trôi dạt cho đến khi bị các tàu khu trục Nhật đánh chìm vào ngày 27 tháng 10 năm 1942. Enterprise một lần nữa bị hư hại trong chiến đấu, nhưng được sửa chữa đủ để có thể đưa máy bay của nó đến Guadalcanal, nơi nó tham gia trận Hải chiến Guadalcanal. Máy bay của Enterprise đã giúp kết liễu chiếc thiết giáp hạm Hiei vốn đã bị hư hại nặng, và đã tiêu diệt đội tàu vận tải Nhật, kết thúc nỗ lực đáng kể cuối cùng của họ nhằm chiếm lại hòn đảo.

Sau một thời gian dài đại tu và sửa chữa tại Bremerton, Washington, Enterprise gia nhập hạm đội tại Trung Thái Bình Dương trong thành phần lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh. Nó tham gia vào mọi hoạt động chính yếu trong chiến dịch Trung Thái Bình Dương, bao gồm trận chiến biển Philippine và trận chiến vịnh Leyte. Các đội bay của nó đã góp phần vào việc phát triển chiến thuật hoạt động ban đêm của tàu sân bay, thực hiện một cuộc không kích ban đêm xuống vũng biển đảo san hô Truk; và sau đó hoạt động như một đội đặc nhiệm bay đêm cho đến hết cuộc chiến.

Cuối cùng Enterprise bị loại khỏi vòng chiến vào ngày 14 tháng 5 năm 1945 khi nó bị đánh trúng vào thang nâng máy bay phía trước bởi một máy bay tấn công cảm tử kamikaze được lái bởi phi công Nhật Bản Trung úy Shunsuke Tomiyasu, làm phá hủy thang nâng máy bay và gây hư hại nặng cho sàn chứa máy bay. Cho đến ngày chiến thắng Đế quốc Nhật Bản, nó vẫn chưa được đưa vào hoạt động trở lại, nhưng sau đó được trang bị để tham gia Chiến dịch Magic Carpet, đưa trở về nhà hơn 10.000 cựu chiến binh từ châu Âu.

Đến cuối Thế Chiến II, Enterprise đã được cải tiến một cách đáng kể. Trọng lượng rẽ nước cuối cùng của nó là 32.060 tấn; và vũ khí trang bị sau cùng bao gồm 8 khẩu 127 mm (5 inch)/38 caliber đa dụng nòng đơn, 40 nòng pháo phòng không Bofors 40 mm bố trí thành 6 khẩu đội bốn nòng và 8 khẩu đội nòng đôi (thay thế cho số pháo 28 mm (1,1 inch)/75 caliber bốn nòng không hiệu quả mà lớp Yorktown ban đầu được trang bị), và 50 khẩu pháo Oerlikon 20 mm phòng không. Lớp Yorktown tỏ ra mong manh đối với ngư lôi, nên trong khi được sửa chữa tại Bremerton, Washington, từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1943, Enterprise được tái trang bị một cách rộng rãi, bao gồm một đai giáp chống ngư lôi, vốn đã tăng cường đáng kể việc bảo vệ bên dưới mực nước.

Được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào năm 1959 sau nhiều nỗ lực thất bại trong việc giữ lại làm tàu bảo tàng và đài tưởng niệm, Enterprise bị tháo dỡ tại Kearny, New Jersey vào năm 1960.

Những chiếc trong lớp

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu sân bay _Yorktown**_ bao gồm ba tàu sân bay được Hoa Kỳ chế tạo, hoàn tất và đưa vào sử dụng không lâu trước Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Chúng
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
**Lớp tàu sân bay _Illustrious**_ bao gồm những tàu sân bay hạm đội của Hải quân Hoàng gia Anh và là những tàu chiến Anh Quốc quan trọng nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ
**Lớp tàu sân bay _Zuihō**_ (tiếng Nhật: 瑞鳳型航空母艦; Zuihō-gata kōkūbokan) bao gồm hai tàu sân bay hạng nhẹ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Cả
**_Shōkaku_** (, nghĩa là _Chim hạc bay liệng_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và tên của nó được đặt cho lớp tàu này. Cùng với chiếc tàu chị
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
**_Kaga_** **(tiếng Nhật: 加賀**, _Gia Hạ_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân
**_Zuikaku_** (, có nghĩa là "chim hạc may mắn") là một tàu sân bay thuộc lớp tàu _Shōkaku_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó đã tham gia vào sự kiện tấn công Trân
**_Shōhō_** (tiếng Nhật: 祥鳳, phiên âm Hán-Việt: _Triển Phụng_, nghĩa là "Phượng hoàng may mắn") là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, tên của nó cũng được đặt
**USS _Yorktown_ (CV-5)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ. Tên nó được dùng để đặt cho Lớp tàu sân bay Yorktown, và là một trong những tàu sân bay chủ lực
**_Lớp tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường Ticonderoga_** là một lớp tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ, lần đầu được đặt hàng và sử dụng vào năm năm 1978. Tàu tuần dương
**USS _Yorktown_ (CV/CVA/CVS-10)** là một trong số 24 chiếc tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II. Nó được đặt tên theo trận Yorktown xảy
Năm tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Yorktown**_, được đặt theo tên Trận Yorktown trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ: * USS _Yorktown_ (1839) là một tàu
**USS _Wasp_ (CV-7)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc tàu chiến thứ tám của Hoa Kỳ được đặt cái tên
**USS _San Francisco_ (CA-38)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố San Francisco thuộc
**Yokosuka D4Y _Suisei**_ (tiếng Nhật: 彗星, **tuệ tinh**, nghĩa là sao chổi) là kiểu máy bay ném bom bổ nhào hoạt động trên các tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên
**_Isuzu_** (tiếng Nhật: 五十鈴) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Isuzu gần đền Ise thuộc khu vực
**_Katori_** (tiếng Nhật: 香取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm ba chiếc, và đã phục vụ trong Chiến
nhỏ|phải|_Yūzuki_ đang thoát ra khỏi cảng [[Tulagi né tránh cuộc không kích từ tàu sân bay _Yorktown_ vào ngày 4 tháng 5 năm 1942, khi quân Nhật tấn công Tulagi]] **_Yūzuki_** (tiếng Nhật: 夕月) là
**_Mochizuki_** (tiếng Nhật: 望月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Mutsuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ
**_Arashi_** (tiếng Nhật: 嵐) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kagerō_ đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Independence_ (CV-22/CVL-22)** là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ, là tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang cái tên này, và là chiếc dẫn đầu trong lớp
**_Kikuzuki_** (tiếng Nhật: 菊月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Mutsuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**USS _Hornet_ (CV-8)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Yorktown_ hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ bảy trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được
**Máy bay ném/thả ngư lôi** là một máy bay quân sự được thiết kế chủ yếu để tấn công tàu thuyền bằng ngư lôi trên không. Máy bay ném ngư lôi đã tồn tại ngay
**_Aoba_** (tiếng Nhật: 青葉) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo
**_Furutaka_** (tiếng Nhật: 古鷹) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**_Kako_** (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Aoba_ bao gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo đỉnh núi Kinugasa tọa
**USS _Enterprise_ (CV-6)**, còn có tên lóng là "Big E", là chiếc tàu sân bay thứ sáu của Hải quân Hoa Kỳ và là một trong tám tàu chiến của Hải quân Mỹ được đặt
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
**USS _Anderson_ (DD-411)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Pensacola_ (CL/CA-24)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ
**USS _New Orleans_ (CA-32)** (trước là **CL-32**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo thành phố
**USS _Walke_ (DD-416)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**USS _Hammann_ (DD-412)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**USS _Hughes_ (DD-410)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Monaghan_ (DD-354)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**USS _Vincennes_ (CA-44)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố Vincennes thuộc tiểu bang
**USS _Russell_ (DD-414)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**USS _Gwin_ (DD-433)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động tại khu vực Đại Tây Dương trước
**USS _Sims_ (DD-409)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc
**USS _John A. Bole_ (DD-755)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Maury_ (DD-401)** là một tàu khu trục lớp _Gridley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Taylor_ (DD-468/DDE-468)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _The Sullivans_ (DD-537)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**USS _Stickell_ (DD-888)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của