USS Enterprise (CV-6), còn có tên lóng là "Big E", là chiếc tàu sân bay thứ sáu của Hải quân Hoa Kỳ và là một trong tám tàu chiến của Hải quân Mỹ được đặt cái tên theo truyền thống này. Được hạ thủy vào năm 1936, nó là một tàu chiến thuộc lớp Yorktown, và là một trong số ba tàu sân bay Mỹ được đưa vào hoạt động trước Thế Chiến II sống sót qua cuộc chiến tranh (hai chiếc kia là và . Con tàu đã tham gia vào nhiều chiến dịch chủ yếu chống lại lực lượng Nhật Bản hơn bất kỳ tàu chiến Hoa Kỳ nào khác, bao gồm các trận Midway, trận chiến Đông Solomon, trận chiến quần đảo Santa Cruz, nhiều cuộc giáp chiến trong chiến dịch Guadalcanal, trận chiến biển Philippine, và trận chiến vịnh Leyte, cũng như là "cuộc không kích Doolittle" nhắm vào Tokyo. Trong ba sự kiện khác nhau trong suốt cuộc chiến tại Thái Bình Dương, người Nhật đã tuyến bố rằng nó đã bị đánh chìm trong chiến đấu.
Enterprise được trao tặng 20 Ngôi sao Chiến trận, thành tích cao nhất trong mọi tàu chiến Hoa Kỳ trong Thế Chiến II. Nó là chiếc tàu duy nhất không thuộc Hải quân Hoàng gia Anh nhận được phần thưởng cao quý nhất Cờ hiệu Hải quân Anh trong suốt lịch sử 400 năm kể từ khi đặt ra phần thưởng này. Một số tác giả xem nó là chiếc tàu chiến vinh quang và danh dự nhất trong suốt lịch sử của Hải quân Hoa Kỳ, có lẽ chỉ cạnh tranh với chiếc chiến thuyền thế kỷ 18 huyền thoại.
Thiết kế và chế tạo
Sau khi việc chế tạo được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua bởi một đạo luật vào ngày 16 tháng 6 năm 1933, Enterprise được đặt lườn vào ngày 16 tháng 7 năm 1934, rồi được hạ thủy vào ngày 3 tháng 10 năm 1936 tại xưởng tàu Newport News Shipbuilding, được đỡ đầu bởi bà Lulie Swanson, phu nhân của Bộ trưởng Hải quân Claude A. Swanson. Con tàu nhập biên chế vào ngày 12 tháng 5 năm 1938 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Đại tá Hải quân Newton H. White.
Lịch sử hoạt động
Các hoạt động ban đầu
Enterprise thực hiện chuyến chạy thử về phía Nam, đi đến Rio de Janeiro, Brazil. Sau khi quay trở về, nó hoạt động dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ và tại vùng biển Caribbe cho đến tháng 4 năm 1939, khi nó được phái sang phục vụ tại Thái Bình Dương. Các dự định được thực hiện tiếp theo sau nhằm bảo tồn con tàu như là một viện bảo tàng hay một nhà lưu niệm, nhưng các nỗ lực gây quỹ bị thất bại không thể quyên góp đủ tiền để mua lại con tàu từ Hải quân, nên "Big E" bị bán vào ngày 1 tháng 7 năm 1958 cho hãng Lipsett Corporation thuộc thành phố New York để được tháo dỡ tại Kearny, New Jersey. Người ta hứa sẽ giữ lại cột anten ba chân đặc trưng cho sân vận động mới của Học viện Hải quân, nhưng việc này không bao giờ được thực hiện; thay vào đó, một tấm biển lưu niệm được đặt dưới chân nơi vẫn được gọi là "Tháp Enterprise". Công việc tháo dỡ được hoàn tất vào tháng 5 năm 1960. Đến năm 1984, một gian "Triển lãm Enterprise" thường trực được dành riêng tại Bảo tàng Không lực Hải quân tại Căn cứ Không lực Hải quân Pensacola, Florida để lưu giữ các hiện vật, hình ảnh và các vật dụng lịch sử khác. Tấm biển hoạt động và một trong những chiếc neo của nó được trưng bày tại Xưởng hải quân Washington tại Washington, D.C.. Nhiều hiện vật và vật lưu niệm khác (bao gồm một trong những ô cửa sổ của nó) được lưu giữ bên trên chiếc tàu sân bay nguyên tử tiếp nối tên của nó.
:Vì đã thi hành một cách kiên định nổi bật và có thành tích xuất sắc trong các hoạt động liên tục chống lại lực lượng Nhật Bản thù địch trong chiến tranh tại khu vực Thái Bình Dương, từ ngày 7 tháng 12 năm 1941 đến ngày 15 tháng 11 năm 1942. Tham gia hầu hết mọi chiến dịch tàu sân bay chủ yếu trong năm đầu tiên của chiến tranh, Enterprise và nhóm không lực của nó, bất chấp sự phá hủy các cơ sở hậu cần trong suốt khu vực chiến sự, đã tự thân đánh chìm hay gây hư hại cho tổng cộng 35 tàu thuyền Nhật Bản và bắn rơi tổng cộng 185 máy bay Nhật. Tinh thần năng nổ và hiệu quả chiến đấu xuất sắc của nó là nhờ các sĩ quan và thủy thủ đã dũng cảm xây dựng nó như một bức tường bảo vệ tuyến đầu trong công việc phòng thủ đất nước Hoa Kỳ.
Ngoài danh hiệu "Đơn vị Tuyên dương Tổng thống", Enterprise còn được nhận danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân và 20 Ngôi sao Chiến đấu vì thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Enterprise_ (CV-6)**, còn có tên lóng là "Big E", là chiếc tàu sân bay thứ sáu của Hải quân Hoa Kỳ và là một trong tám tàu chiến của Hải quân Mỹ được đặt
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
**USS _Saratoga_ (CV-3)** là chiếc tàu chiến thứ năm trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được mang tên **Saratoga**, tên đặt theo trận chiến Saratoga quan trọng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập
**USS _North Carolina_ (BB-55)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc, và là chiếc thiết giáp hạm mới đầu tiên
**USS _Ranger_ (CV/CVA-61)** là chiếc thứ ba trong số bốn chiếc siêu hàng không mẫu hạm lớp _Forrestal_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Thập niên 1950. Cho dù cả bốn chiếc trong
**USS _Yorktown_ (CV-5)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ. Tên nó được dùng để đặt cho Lớp tàu sân bay Yorktown, và là một trong những tàu sân bay chủ lực
**USS _America_ (CVA/CV-66)** là một siêu hàng không mẫu hạm lớp _Kitty Hawk_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong thập niên 1960. Nhập biên chế năm 1965, nó trải qua phần lớn quãng
Chiếc **Douglas TBD Devastator** (Kẻ Phá Hủy) là một kiểu máy bay ném ngư lôi của Hải quân Hoa Kỳ, đặt hàng năm 1934, bay lần đầu năm 1935 và đưa vào hoạt động năm
Đây là danh sách tàu Đồng Minh bị hư hại do các cuộc tấn công của lực lượng Thần phong trong Thế chiến II. * USS _Aaron Ward_ (DM-34) (Tháng Năm, 1945) * USS _Achernar_
phải|_[[USS Bunker Hill (CV-17)|Bunker Hill_ bị tấn công bằng kamikaze do Thiếu úy Kiyoshi Ogawa điều khiển (ảnh bên dưới) và Trung úy Seizō Yasunori thực hiện vào ngày 11 tháng 5 năm 1945. Trong
Chiếc **A-6 Intruder** là một kiểu máy bay cường kích hai động cơ, cánh gắn giữa do Grumman Aerospace chế tạo. Được đưa vào sử dụng từ năm 1963 đến năm 1997, chiếc Intruder được
Douglas SBD Dauntless (Dũng cảm) là kiểu máy bay ném bom bổ nhào chủ yếu trong giai đoạn nửa đầu của Thế Chiến II của Hải quân Hoa Kỳ. Chiến công đáng chú ý (và
**Lớp tàu sân bay _Yorktown**_ bao gồm ba tàu sân bay được Hoa Kỳ chế tạo, hoàn tất và đưa vào sử dụng không lâu trước Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Chúng
Chiếc **Chance Vought F4U Corsair** là máy bay tiêm kích của Hoa Kỳ hoạt động rộng rãi trong giai đoạn nửa sau của Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên cũng
**_USS Gerald R. Ford (CVN-78)_** là tàu đầu tiên của lớp tàu sân bay _Gerald R. Ford_ thuộc nhóm siêu mẫu hạm của Hải Quân Hoa Kỳ. Khi được công bố bởi Hải Quân Hoa
**New Jersey** là một tiểu bang ở vùng Trung Đại Tây Dương và Đông Bắc của Hoa Kỳ. Phía bắc và phía đông giáp với bang New York; phía đông, đông nam và nam giáp
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**Trận hải chiến ở quần đảo Santa Cruz** vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, người Nhật Bản thường gọi là **Minami Taiheiyou Kaisen** (南太平洋海戦, みなみたいへいようかいせん) là trận hải chiến thứ tư giữa các tàu
**Hải quân Hoa Kỳ** (viết tắt: **USN**) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong tám lực lượng vũ trang chuyên nghiệp của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2018, Hải
**Chiến dịch Gratitude**, hay còn được gọi là **Cuộc không kích** **ở** **Biển Đông,** là một chiến dịch không kích được tiến hành bởi Đệ Tam Hạm đội của Hải quân Hoa Kỳ trên Mặt
Chiếc **Ling-Temco-Vought A-7 Corsair II** là một kiểu máy bay cường kích hạng nhẹ cận âm hoạt động trên tàu sân bay được đưa ra hoạt động trong Hải quân Hoa Kỳ để thay thế
**Trận chiến biển Philippines** (hay còn được gọi là **"Cuộc bắn gà ở quần đảo Mariana"**) là trận hải chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Chiếc **Grumman TBF Avenger** (Người Báo Thù) (còn mang ký hiệu là **TBM** cho những chiếc được sản xuất bởi General Motors) là kiểu máy bay ném ngư lôi, ban đầu được phát triển cho
Trung tá Không quân Jimmy Doolittle (thứ hai từ bên trái) và đội bay của ông chụp ảnh trước một chiếc B-25 trên sàn đáp tàu sân bay USS _Hornet_ Cuộc **Không kích Doolittle** vào
**Yokosuka D4Y _Suisei**_ (tiếng Nhật: 彗星, **tuệ tinh**, nghĩa là sao chổi) là kiểu máy bay ném bom bổ nhào hoạt động trên các tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**Chiến dịch Hailstone** (tiếng Nhật:トラック島空襲, _Torakku-tō Kūshū,_ tức _Không kích tại Đảo Truk_) là một chiến dịch không kích/bắn phá lớn của Hải quân Hoa Kỳ nhằm vào lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật
**Phi đoàn Chiến đấu số 1** (_Fighter Squadron 1_ - **VF-1**) là một đơn vị máy bay chiến đấu thuộc Hải quân Hoa Kỳ, được biết đến với biệt danh "Wolfpack" (bầy sói). Hiện tại,
nhỏ|Aichi D3A1 đang bay. nhỏ|phải|Aichi D3A2 đang được bảo trì. Chiếc (Máy bay Ném bom Hải quân Kiểu 99 trên Tàu sân bay), tên mã của Đồng Minh là **_Val_**, là kiểu máy bay ném
**Hải chiến ngoài khơi Samar** hay **Trận Samar** là trận đánh mang tính quan trọng trong thời gian diễn ra cuộc Hải chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch
**Lockheed U-2**, tên hiệu "**Dragon Lady**", là một máy bay trinh sát một động cơ, bay ở độ cao rất lớn, do Không quân Hoa Kỳ và trước đó là Cục Tình báo Trung ương
**F-4 Phantom II** (**Bóng Ma II**) là một loại máy bay tiêm kích-ném bom đa năng tầm xa siêu thanh hai chỗ ngồi hoạt động trong mọi thời tiết được hãng McDonnell Douglas thiết kế