✨USS Saratoga (CV-3)

USS Saratoga (CV-3)

USS Saratoga (CV-3) là chiếc tàu chiến thứ năm trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được mang tên Saratoga, tên đặt theo trận chiến Saratoga quan trọng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ. Nó là chiếc tàu sân bay thứ hai của Hải quân Mỹ, được đưa vào hoạt động một tháng sớm hơn chiếc tàu chị-em cùng lớp USS Lexington sẽ là chiếc thứ ba sau chiếc USS LangleySaratoga. Vì Saratoga trông giống hệt chiếc Lexington, ống khói của nó được sơn một sọc đen dọc nhằm giúp phi công dễ nhận diện ra nó. Dấu hiệu nhận dạng này mang lại cho nó tên lóng "Stripe-Stacked Sara" (Sara ống khói sọc).

Nó hoạt động cho đến tận năm 1946, và là một trong những tàu sân bay chủ lực của Mỹ trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai tại Mặt trận Thái Bình Dương. Saratoga, EnterpriseRanger là những tàu sân bay hạm đội của Hải quân Mỹ chế tạo trước chiến tranh còn sống sót và phục vụ suốt quá trình can dự của Mỹ trong Thế Chiến II.

Thiết kế & chế tạo

Saratoga được đặt lườn ngày 25 tháng 9 năm 1920, như là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ ba thuộc lớp Lexington tại xưởng New York Shipbuilding Corporation, một chi nhánh của hãng American Brown-Boveri Electric Corporation ở Camden, New Jersey; việc chế tạo được hủy bỏ và nó được tái cấu trúc thành một tàu sân bay với ký hiệu là CV-3 vào ngày 1 tháng 7 năm 1922, để phù hợp với những giới hạn do Hiệp ước Hải quân Washington quy định; được hạ thủy ngày 7 tháng 4 năm 1925; được đỡ đầu bởi Bà Curtis D. Wilbur, phu nhân của Bộ trưởng Hải quân; và đưa vào hoạt động ngày 16 tháng 11 năm 1927, dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại tá Hải quân Harry E. Yarnell.

Lịch sử hoạt động trước Thế Chiến II (1928–1940)

Saratoga là chiếc tàu sân bay nhanh đầu tiên của Hải quân, nhanh chóng chứng minh giá trị của loại tàu này. Nó khởi hành từ Philadelphia vào ngày 6 tháng 1 năm 1928 cho chuyến đi chạy thử máy, và đến ngày 11 tháng 1, viên chỉ huy không lực của nó, sau này sẽ là anh hùng trong Thế Chiến II, Marc A. Mitscher, hạ cánh chiếc máy bay đầu tiên. Trong một thử nghiệm vào ngày 27 tháng 1, chiếc khí cầu khung cứng Los Angeles đến neo vào đuôi tàu Saratoga để được tiếp nhiên liệu và vũ khí. Cùng ngày hôm đó, Saratoga khởi hành đi sang Thái Bình Dương ngang qua kênh đào Panama. Nó chuyển hướng trong một khoảng ngắn giữa ngày 14 đến 16 tháng 2 để chuyên chở lực lượng Thủy quân Lục chiến đến Corinto, Nicaragua, và cuối cùng gia nhập Hạm đội Chiến trận tại San Pedro, California vào 21 tháng 2. Thời gian còn lại trong năm được nó dùng vào việc huấn luyện và chạy thử máy sau cùng. Sau những sửa chữa tại Tongatabu từ ngày 6 đến ngày 12 tháng 9, Saratoga trở về Trân Châu Cảng ngày 21 tháng 9 để được sửa chữa triệt để.

1943

nhỏ|Thủy thủ trên Saratoga đang đỡ xạ thủ súng máy ra khỏi chiếc [[TBF Avenger sau một phi vụ tại Rabaul vào tháng 11 năm 1943.]] Saratoga khởi hành từ Trân Châu Cảng ngày 10 tháng 11 năm 1942 hướng về Fiji rồi đến Nouméa ngày 5 tháng 12 năm 1942. Trong 12 tháng tiếp sau đó nó hoạt động ở vùng phụ cận Nouméa, yểm trợ trên không cho các chiến dịch nhỏ cũng như bảo vệ các đơn vị Mỹ đóng tại phía đông quần đảo Solomons. Từ ngày 17 tháng 5 đến ngày 31 tháng 7 năm 1943, nó được tăng cường bởi tàu sân bay Anh HMS Victorious, và đến ngày 20 tháng 10, nó được tàu sân bay hạng nhẹ USS Princeton tháp tùng. Khi các đơn vị đổ bộ lên đảo Bougainville ngày 1 tháng 11, máy bay của Saratoga đã vô hiệu hóa các sân bay Nhật lân cận trên đảo Buka. Rồi đến ngày 5 tháng 11, nhận được tin báo các tàu tuần dương Nhật đang tập trung tại Rabaul để phản công các lực lượng Đồng Minh đổ bộ, Saratoga tung ra cuộc tấn công có lẽ là sáng chói nhất trong suốt cuộc chiến. Máy bay của nó đã thâm nhập qua cảng biển được phòng thủ dày đặc và loại bỏ hầu hết các tàu tuần dương Nhật ra khỏi cuộc chiến, chấm dứt mối đe dọa trên mặt biển nhắm vào Bougainville. Bản thân chiếc Saratoga vô sự và quay trở về tiếp tục không kích vào Rabaul ngày 11 tháng 11.

SaratogaPrinceton sau đó được đưa vào Đội Tàu sân bay Trợ giúp (Relief Carrier Group) để tấn công vào quần đảo Gilberts, và sau khi tấn công vào Nauru ngày 19 tháng 11, chúng hẹn gặp gỡ đội tàu vận chuyển vào ngày 23 tháng 11 đưa lực lượng đến đảo Makin và đảo san hô Tarawa. Các tàu sân bay yểm trợ trên không cho đến khi đội tàu vận chuyển đến được mục tiêu rồi tiếp tục tuần tiễu trên khu vực Tarawa. Cho đến lúc này, Saratoga đã hoạt động trên một năm mà không được sửa chữa, nên nó được tách ra khỏi hạm đội vào ngày 30 tháng 11 để quay về Mỹ. Nó được đại tu tại San Francisco từ ngày 9 tháng 12 năm 1943 đến ngày 3 tháng 1 năm 1944, và nó được nâng cấp hỏa lực phòng không lần cuối cùng, thay 36 khẩu 20 mm bằng 60 khẩu pháo 40 mm.

1944

Chiếc tàu sân bay đến Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 1, và sau một thời gian huấn luyện ngắn, nó rời Trân Châu Cảng ngày 19 tháng 1 với các tàu sân bay hạng nhẹ LangleyPrinceton để hỗ trợ cho các hoạt động tại quần đảo Marshalls. Máy bay của nó tấn công Wotje và Taroa trong ba ngày từ 29 đến 31 tháng 1, rồi ném bom Engebi, đảo chính của Eniwetok, trong các ngày 3 đến ngày 6 và ngày 10 đến ngày 12 tháng 2. Máy bay tung ra những đòn tấn công cuối cùng trên hệ thống phòng ngự của quân Nhật trong ngày 16, một ngày trước cuộc đổ bộ, rồi tiếp tục hỗ trợ tấn công gần mặt đất và tuần tra chiến đấu trên không bên trên không phận đảo cho đến ngày 28 tháng 2.

Saratoga sau đó rời khỏi những chiến trường chính tại Thái Bình Dương trong vòng gần một năm, thực hiện nhiều nhiệm vụ kém ngoạn mục nhưng khá quan trọng tại nhiều nơi. Trước tiên nó giúp đỡ Hạm đội Anh tấn công tại khu vực Đông Ấn. Ngày 4 tháng 3, Saratoga rời khỏi Majuro cùng ba tàu tuần dương hộ tống, đi qua Espiritu Santo; Hobart, Tasmania; và Fremantle, Australia, để gia nhập Hạm đội Anh Viễn Đông tại Ấn Độ Dương. Nó đến điểm hẹn ngày 27 tháng 3 và gặp gỡ lực lượng Anh, bao gồm tàu sân bay HMS Illustrious, tàu chiến-tuần dương HMS Renown (là kỳ hạm của Phó Đô Đốc chỉ huy phó Hạm đội Viễn Đông), các thiết giáp hạm HMS Queen Elizabeth và HMS Valiant cùng các tàu hộ tống, và cùng đến Trincomalee, Tích Lan (Ceylon, ngày nay là Sri Lanka) ngày 31 tháng 3. Đến ngày 12 tháng 4, chiếc thiết giáp hạm Pháp Richelieu cũng đến, gia tăng thêm hương vị quốc tế cho lực lượng này, vốn cũng bao gồm các tàu chiến của Australia, New Zealand và Hà Lan. Trong hai ngày tiếp theo, các tàu sân bay tiến hành tập trận ngoài khơi, nơi mà các phi công của chiếc Saratoga cố gắng truyền đạt những kinh nghiệm của họ cho các phi công Anh.

Ngày 16 tháng 4, Hạm đội Viễn Đông, cùng chiếc Saratoga, khởi hành từ Trincomalee, và đến ngày 19, máy bay từ hai tàu sân bay tấn công cảng Sabang ở phía mũi Tây Bắc đảo Sumatra trong Chiến dịch Cockpit. Lực lượng Nhật Bản hoàn toàn bị bất ngờ bởi cuộc tấn công mới này, và nó gây nhiều thiệt hại cho các thiết bị cảng và các kho dầu, với các thiệt hại tối thiểu. Cuộc không kích tỏ ra thành công đến nỗi chiếc Saratoga hoãn lại cuộc khởi hành để tiến hành trận không kích thứ hai. Khởi hành từ Ceylon ngày 6 tháng 5, lực lượng đã tấn công vào Soerabaja trên đảo Java vào ngày 17 tháng 5 với những kết quả thành công tương tự. Saratoga tách khỏi lực lượng này ngày hôm sau, và đi diễu qua khối các tàu chiến thuộc Hạm đội Viễn Đông, nơi các tàu Đồng Minh hoan hô và chúc mừng lẫn nhau. nhỏ|Saratoga sau khi được cải tạo năm [[1944 với màu sơn ngụy trang.]] Saratoga trở về Bremerton, Washington ngày 10 tháng 6 năm 1944 để được đại tu. Ngày 24 tháng 9, nó đến Trân Châu Cảng và khởi sự nhiệm vụ đặc biệt huấn luyện các phi đội tiên kích bay đêm. Saratoga đã từng thử nghiệm bay đêm ngay từ năm 1931, và nhiều tàu sân bay đã buộc phải tiếp nhận những máy bay quay về tàu ban đêm trong chiến tranh, nhưng chỉ cho đến tháng 8 năm 1944 mới có một tàu sân bay hạng nhẹ, chiếc Independence, nhận được một liên đội được trang bị đặc biệt để hoạt động ban đêm. Cùng lúc đó, Đội Tàu sân bay 11, bao gồm chiếc Saratoga và chiếc Ranger, được giao nhiệm vụ tại Trân Châu Cảng để huấn luyện phi công bay đêm và phát triển học thuyết bay đêm. Saratoga tiếp tục nhiệm vụ huấn luyện quan trọng này trong gần bốn tháng, nhưng cho đến tháng 10, chỉ huy trưởng của Đội Tàu sân bay được khuyến cáo rằng "trong khi làm nhiệm vụ huấn luyện là chủ yếu, Saratoga có giá trị rất lớn trong chiến đấu và nên được giữ trong tình trạng luôn sẵn sàng cho các nhiệm vụ tác chiến." Nhiệm vụ được giao vào tháng 1 năm 1945. Những tàu sân bay hạng nhẹ như chiếc Independence cho thấy là quá nhỏ để có thể hoạt động bay đêm an toàn, và chiếc Saratoga vội vã khởi hành khỏi Trân Châu Cảng ngày 29 tháng 1 năm 1945, để thành lập một đội đặc nhiệm tiêm kích bay đêm cùng với chiếc Enterprise trong chiến dịch tấn công đảo Iwo Jima.

1945

nhỏ|Saratoga trong vịnh [[Puget Sound sau khi sửa chữa các hư hại trong chiến đấu.]] nhỏ|Saratoga trong một đợt vận chuyển "Magic Carpet" năm [[1945.]] Saratoga đến Ulithi ngày 7 tháng 2 và rời khỏi đó ba ngày sau cùng với chiếc Enterprise cùng bốn đội đặc nhiệm tàu sân bay khác. Sau khi thực tập đổ bộ cùng Thủy quân Lục chiến tại Tinian ngày 12 tháng 2, lực lượng tàu sân bay thực hiện nhiều cuộc tấn công trên các đảo Nhật Bản chính quốc trong các đêm 16 và 17 tháng 2, trước Trận Iwo Jima. Saratoga được phân công yểm hộ trên không trong khi các tàu sân bay khác tấn công các đảo Nhật Bản, nhưng trong quá trình đó các máy bay tiêm kích của nó cũng tham gia tấn công hai sân bay Nhật Bản. Lực lượng được tiếp nhiên liệu trong các ngày 18 và 19 tháng 2, rồi đến ngày 21 tháng 2, Saratoga tách ra khỏi lực lượng cùng với ba tàu khu trục hộ tống để tiến hành các phi vụ tuần tra đêm bên trên Iwo Jima và các phi vụ đêm bên trên đảo Chi-chi Jima gần đó. Tuy nhiên, khi nó đến khu vực hoạt động vào khoảng 17 giờ ngày 21, một cuộc tấn công đã xảy ra. Lợi dụng mây che phủ thấp và lực lượng hộ tống của chiếc Saratoga không đầy đủ, 6 chiếc máy bay Nhật đã ném trúng năm quả bom trong vòng ba phút. 3 chiếc máy bay trong số đó cũng đã lao thẳng vào Saratoga. Một đợt tấn công khác diễn ra lúc 19 giờ với thêm một trái bom trúng đích.

Sàn đáp phía trước của chiếc Saratoga bị hư hại nặng, mạn phải tàu bị thủng hai lỗ và đám cháy bùng phát trong kho chứa máy bay, 123 thủy thủ đoàn thiệt mạng hay mất tích và 192 người bị thương. 40 máy bay của nó đã bị phá hủy, bao gồm 31 máy bay chiến đấu Grumman F6F Hellcat và 9 máy bay ném ngư lôi Grumman TBM Avenger. Đến 20 giờ 15, đám cháy được kiểm soát và Saratoga bắt đầu nhận hạ cánh những máy bay của nó, nhưng nó được yêu cầu đi đến Eniwetok, và sau đó là quay về Bờ Tây để được sửa chữa, và nó về đến Bremerton ngày 16 tháng 3.

Ngày 22 tháng 5, Saratoga rời khỏi Puget Sound sau khi được sửa chữa toàn diện, và nó quay lại vai trò huấn luyện phi công tại Trân Châu Cảng ngày 3 tháng 6. Nó chấm dứt nhiệm vụ huấn luyện ngày 6 tháng 9 sau khi Nhật Bản đầu hàng, và rời khỏi Hawaii ngày 9 tháng 9, vận chuyển 3.712 cựu quân nhân hải quân quay về Mỹ trong khuôn khổ Chiến dịch Magic Carpet (Chiếc thảm thần). Kết thúc chiến dịch "Magic Carpet", Saratoga đã đưa về nhà 29.204 cựu quân nhân khu vực Thái Bình Dương, nhiều hơn bất kỳ chiếc tàu nào khác. Vào lúc đó, nó cũng giữ kỷ lục về số máy bay hạ cánh trên tàu sân bay lớn nhất, với tổng số 98.549 lần hạ cánh trong 17 năm phục vụ.

Kết thúc phục vụ

nhỏ|Saratoga đang chìm sau thử nghiệm [[vũ khí hạt nhân|bom nguyên tử tại đảo san hô Bikini.]] Với sự có mặt với số lượng lớn những tàu sân bay thuộc lớp Essex, Saratoga trở nên dư thừa đối với nhu cầu sau chiến tranh, nên nó được dùng làm mục tiêu trong Chiến dịch Crossroads tại đảo san hô Bikini nhằm thử nghiệm hậu quả của vụ nổ sinh ra từ bom nguyên tử ảnh hưởng đến tàu chiến hải quân. Nó đã sống sót được sau thử nghiệm thứ nhất (Thử nghiệm ABLE), một vụ nổ hạt nhân trên không ngày 1 tháng 7 năm 1946, với những hư hại nhẹ. Tuy nhiên, nó bị hư hại tới mức không sửa chữa được trong cuộc thử nghiệm thứ hai (Thử nghiệm BAKER) ngày 25 tháng 7, một vụ nổ sâu dưới nước 30 m bên dưới tàu đổ bộ LSM-60 cách xa chiếc tàu sân bay khoảng 500 m. Những nỗ lực ứng cứu chiếc tàu bị ngăn chặn do sự nhiễm phóng xạ quá cao, và bảy giờ rưỡi sau vụ nổ, ống khói nổi tiếng của nó đổ sụp dọc theo sàn tàu, và chiếc Saratoga chìm xuống dưới lòng vịnh đảo san hô. Nó được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân ngày 15 tháng 8 năm 1946.

Saratoga đã nhận được bảy Ngôi sao Chiến đấu vì những thành tích trong Thế Chiến II.

Những năm gần đây, vị trí đắm tàu, mà phần nhô cao lên nhất chỉ cách mặt nước 12 m (40 ft), trở thành một địa điểm bơi lặn, một trong hai địa điểm đắm tàu sân bay duy nhất trên thế giới (nơi kia là của chiếc USS Oriskany tại Vịnh Mexico) có thể đến được cho các tay bơi lặn nghiệp dư.

Văn hóa đại chúng

Phim Hell Divers năm 1931 do Wallace Berry và một diễn viên trẻ Clark Gable đóng nói về một đôi phi công ganh đua nhau trên chiếc ‘‘Saratoga’’, trong phim có nhiều cảnh quay về hoạt động thực trên chiếc tàu.

Phần thưởng

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Saratoga_ (CV-3)** là chiếc tàu chiến thứ năm trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được mang tên **Saratoga**, tên đặt theo trận chiến Saratoga quan trọng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập
**USS _Saratoga_ (CV/CVA/CVB-60)** là chiếc thứ hai trong số bốn chiếc siêu hàng không mẫu hạm lớp _Forrestal_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong thập niên 1950. Nó là chiếc tàu chiến thứ
**USS _Saratoga**_ có thể là: * Một trong số các tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo trận Saratoga trong cuộc Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ: ** USS _Saratoga_ (1780),
Chiếc **USS _Lexington_ (CV-2)**, có tên lóng là "Gray Lady" hoặc "Lady Lex", là một trong những tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Tên nó được dùng để đặt cho lớp
**USS _Langley_ (CV-1/AV-3)** là chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ, được cải biến vào năm 1920 từ chiếc tàu tiếp than **USS _Jupiter_ (AC-3)**, và cũng là chiếc tàu đầu
**USS _Midway_ (CVB/CVA/CV-41)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu sân bay đầu tiên được đưa ra hoạt động sau
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**Lớp tàu sân bay _Lexington**_ bao gồm hai chiếc tàu sân bay hạm đội hoạt động đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ban đầu được đặt lườn vào giai đoạn cuối của Chiến tranh
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
là một nữ diễn viên lồng tiếng và ca sĩ Nhật Bản, trước đây trực thuộc Space Craft Entertainment. Cô giành được giải Nữ diễn viên tân binh xuất sắc nhất tại Lễ trao giải
**Phi đoàn Chiến đấu số 1** (_Fighter Squadron 1_ - **VF-1**) là một đơn vị máy bay chiến đấu thuộc Hải quân Hoa Kỳ, được biết đến với biệt danh "Wolfpack" (bầy sói). Hiện tại,
**USS _North Carolina_ (BB-55)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc, và là chiếc thiết giáp hạm mới đầu tiên
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước đó. _Maya_ đã hoạt
**Boeing F2B** là một mẫu máy bay tiêm kích hai tầng cánh của Hải quân Hoa Kỳ vào thập niên 1920, rất quen thuộc đối với những người hâm mộ hàng không của thời kỳ
**Lớp tàu sân bay _Kitty Hawk**_ bao gồm bốn siêu hàng không mẫu hạm được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong thập niên 1960. Với thiết kế được cải tiến dựa trên lớp tàu
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Lớp thiết giáp hạm _Colorado**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ có ba
**F-4 Phantom II** (**Bóng Ma II**) là một loại máy bay tiêm kích-ném bom đa năng tầm xa siêu thanh hai chỗ ngồi hoạt động trong mọi thời tiết được hãng McDonnell Douglas thiết kế
Chiếc **Ling-Temco-Vought A-7 Corsair II** là một kiểu máy bay cường kích hạng nhẹ cận âm hoạt động trên tàu sân bay được đưa ra hoạt động trong Hải quân Hoa Kỳ để thay thế
phải|_[[USS Bunker Hill (CV-17)|Bunker Hill_ bị tấn công bằng kamikaze do Thiếu úy Kiyoshi Ogawa điều khiển (ảnh bên dưới) và Trung úy Seizō Yasunori thực hiện vào ngày 11 tháng 5 năm 1945. Trong
**Trận hải chiến ở quần đảo Santa Cruz** vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, người Nhật Bản thường gọi là **Minami Taiheiyou Kaisen** (南太平洋海戦, みなみたいへいようかいせん) là trận hải chiến thứ tư giữa các tàu
Chiếc **A-6 Intruder** là một kiểu máy bay cường kích hai động cơ, cánh gắn giữa do Grumman Aerospace chế tạo. Được đưa vào sử dụng từ năm 1963 đến năm 1997, chiếc Intruder được
Chiếc **Douglas TBD Devastator** (Kẻ Phá Hủy) là một kiểu máy bay ném ngư lôi của Hải quân Hoa Kỳ, đặt hàng năm 1934, bay lần đầu năm 1935 và đưa vào hoạt động năm
Chiếc **Grumman TBF Avenger** (Người Báo Thù) (còn mang ký hiệu là **TBM** cho những chiếc được sản xuất bởi General Motors) là kiểu máy bay ném ngư lôi, ban đầu được phát triển cho
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
nhỏ|phải|Chó chọi lợn **Chọi lợn** là một môn thể thao máu me (trò huyết đấu) giữa các con lợn với chó chọi hoặc giữa những con lợn với nhau nhằm phục vụ cho sở thích
**F-8 Crusader** **(Thập Tự Quân)**, tên hiệu ban đầu là **F8U**, là máy bay tiêm kích 1 động cơ của Hoa Kỳ trang bị cho tàu sân bay được chế tạo bởi hãng Chance-Vought ở
**_Isuzu_** (tiếng Nhật: 五十鈴) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Isuzu gần đền Ise thuộc khu vực