✨USS Lexington (CV-2)

USS Lexington (CV-2)

Chiếc USS Lexington (CV-2), có tên lóng là "Gray Lady" hoặc "Lady Lex", là một trong những tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Tên nó được dùng để đặt cho lớp tàu sân bay Lexington, cho dù chiếc tàu em của nó là chiếc USS Saratoga (CV-3) được đưa vào hoạt động sớm hơn nó một tháng. Lexington là một trong những tàu sân bay chủ lực của Mỹ trong giai đoạn đầu của Thế Chiến II tại Mặt trận Thái Bình Dương, và đã bị máy bay Nhật đánh chìm trong Trận chiến biển Coral.

Vào ngày 05 tháng 3 năm 2018, nhà kinh doanh và nhà thám hiểm Paul Allen tuyên bố rằng ông đã định vị được xác tàu Lexington khoảng 500 dặm (800 km) ngoài khơi bờ biển đông bắc của Australia.

Cấu trúc

Chiếc Lexington là chiếc tàu chiến thứ tư trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được mang tên USS Lexington, tên đặt theo trận Lexington diễn ra tại Lexington, Massachusetts trong cuộc chiến dành độc lập Mỹ năm 1775. Nó và chiếc tàu em của nó Saratoga, ban đầu được đặt hàng vào năm 1916 như là các tàu chiến-tuần dương, có trọng lượng rẽ nước 35.300 tấn với bảy nồi hơi và ống khói bố trí trên hai sàn. Sau Thế Chiến I, và với những bài học kinh nghiệm từ cuộc chiến này, đã có những cải tổ lớn được đưa ra vào năm 1919. Được đặt tên là CC-1 và CC-3, chúng được đặt lườn như những chiếc tàu chiến-tuần dương vào ngày 8 tháng 1 năm 1921 bởi xưởng đóng tàu Fore River tại Quincy, Massachusetts.

Tiếp theo sau Hiệp ước Hải quân Washington, cả hai được đặt lại tên và cải tạo để hoàn tất như là tàu sân bay vào ngày 1 tháng 7 năm 1922. Để được như vậy, trọng lượng rẽ nước phải giảm bớt 8.500 tấn, chủ yếu đạt được nhờ việc loại bỏ tám khẩu pháo 405 mm (16 in) trên bốn tháp súng đôi (bao gồm cả bệ súng, vỏ giáp...). Đai giáp chính được giữ lại, và vỏ giáp sàn tàu được tăng cường. Những đường nét chung của thân tàu được giữ lại, và hệ thống bảo vệ đặc biệt phần dưới nước cũng được gắn liền. Sàn đáp dài 244 m (880 ft) và rộng 25,9-27,4 m (85–90 ft), cao 18,3 m (60 ft) so với mực nước. Tầm nước chính là 7,4 m (24 ft 2 in). Chiếc LexingtonSaratoga được trang bị động cơ turbine điện với 16 nồi hơi Yarrow cung cấp động lực cho bốn turbine General Electric quay các máy phát điện để vận hành bốn động cơ chính chậm hơn. và bốn khẩu 57 mm (2.24 in). Hai chiếc này là những chiếc tàu cuối cùng được trang bị máy phóng nằm ngang như là thiết kế ngay từ ban đầu. Máy phóng có hành trình di chuyển dài 47,2 m (155 ft) và đủ mạnh để phóng kiểu máy bay nặng nhất của hải quân vào thời đó trong quãng đường 18,3 m (60 ft). Vào lúc chế tạo, cả hai chiếc tàu đều có những cần trục để phóng và thu hồi những chiếc thủy phi cơ, một tính năng bị tháo bỏ trong chiến tranh và được thay bằng các khẩu pháo phòng không bổ sung. Chiếc tàu được thiết kế để chở được tối đa 120 máy bay các loại bao gồm máy bay tiêm kích, tuần tiễu và ném bom. Mỗi chiếc tàu trị giá 45 triệu Đôla Mỹ kể cả máy bay.

Chiếc Lexington được hạ thủy ngày 3 tháng 10 năm 1925, được đỡ đầu bởi Bà Theodore Douglas Robinson (phu nhân của Trợ lý Bộ trưởng Hải Quân), và nhập biên chế vào ngày 14 tháng 12 năm 1927 dưới sự chỉ huy của Hạm trưởng, Đại tá Hải quân Albert W. Marshall.

Lịch sử hoạt động

1928-1941

Sau khi được trang bị và chạy thử, Lexington gia nhập Hạm đội Tàu chiến tại San Pedro, California vào ngày 7 tháng 4 năm 1928. Đặt căn cứ tại đây, nó hoạt động tại vùng bờ tây trong các nhiệm vụ huấn luyện bay, diễn tập chiến thuật và các cuộc tập trận. Hằng năm nó tham gia vào các cuộc tập trận cơ động hạm đội ở Hawaii, trong vùng biển Caribe, ngoài khơi Vùng kênh đào Panama, và tại Đông Thái Bình Dương. Trong các chuyến đi thử, chiếc Lexington đạt được vận tốc trung bình 30,7 knot (hải lý mỗi giờ), và duy trì được vận tốc 34,5 knot trong một giờ. Lexington là một trong số 14 tàu chiến đầu tiên được trang bị radar kiểu sơ khai RCA CXAM-1. Knox đã đồng ý với đề nghị đó, và vào ngày 23 tháng 9 năm 1942 chiếc USS Lexington thứ năm trong lịch sử Hải quân Mỹ được hạ thủy.

Lexington đã nhận được hai Ngôi sao chiến đấu vì các thành tích phục vụ trong Thế chiến II.

Phát hiện

Ngày 4/3/2018, tàu nghiên cứu RV Petrel của người đồng sáng lập Microsoft, tỷ phú Paul Allen trong cuốc thám hiểm Biển San Hô đã phát hiện ra xác tàu Lady Lex ở độ sâu gần 2 dặm (3 km) dưới mặt nước biển và 430 hải lý ngoài khơi bờ biển Queensland của Úc. Một chiếc tàu lặn tự hành điều khiển từ xa đã xác nhận danh tính của tàu qua việc đọc biển hiệu đuôi tàu.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Chiếc **USS _Lexington_ (CV-2)**, có tên lóng là "Gray Lady" hoặc "Lady Lex", là một trong những tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Tên nó được dùng để đặt cho lớp
**USS _Lexington_ (CV/CVA/CVS/CVT/AVT-16)**, tên lóng "The Blue Ghost", là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II. Nó là chiếc tàu
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng mang tên **_Lexington_**, được đặt theo tên thị trấn Lexington, Massachusetts, nơi dân quân thuộc địa lần đầu tiên chạm trán với quân đội Anh trong
**USS _Saratoga_ (CV-3)** là chiếc tàu chiến thứ năm trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được mang tên **Saratoga**, tên đặt theo trận chiến Saratoga quan trọng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**Lớp tàu sân bay _Lexington**_ bao gồm hai chiếc tàu sân bay hạm đội hoạt động đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ban đầu được đặt lườn vào giai đoạn cuối của Chiến tranh
**USS _Langley_ (CV-1/AV-3)** là chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ, được cải biến vào năm 1920 từ chiếc tàu tiếp than **USS _Jupiter_ (AC-3)**, và cũng là chiếc tàu đầu
**USS _Ranger_ (CV/CVA-61)** là chiếc thứ ba trong số bốn chiếc siêu hàng không mẫu hạm lớp _Forrestal_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Thập niên 1950. Cho dù cả bốn chiếc trong
**Thái Bình Dương** (Tiếng Anh: _Pacific Ocean_) là đại dương lớn nhất và sâu nhất trong năm phân vùng đại dương của Trái Đất. Nó kéo dài từ Bắc Băng Dương ở phía bắc đến
**Chiến dịch Gratitude**, hay còn được gọi là **Cuộc không kích** **ở** **Biển Đông,** là một chiến dịch không kích được tiến hành bởi Đệ Tam Hạm đội của Hải quân Hoa Kỳ trên Mặt
**Chiến dịch Hailstone** (tiếng Nhật:トラック島空襲, _Torakku-tō Kūshū,_ tức _Không kích tại Đảo Truk_) là một chiến dịch không kích/bắn phá lớn của Hải quân Hoa Kỳ nhằm vào lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật
Chiếc **Douglas TBD Devastator** (Kẻ Phá Hủy) là một kiểu máy bay ném ngư lôi của Hải quân Hoa Kỳ, đặt hàng năm 1934, bay lần đầu năm 1935 và đưa vào hoạt động năm
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**Trận chiến biển Philippines** (hay còn được gọi là **"Cuộc bắn gà ở quần đảo Mariana"**) là trận hải chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và
phải|_[[USS Bunker Hill (CV-17)|Bunker Hill_ bị tấn công bằng kamikaze do Thiếu úy Kiyoshi Ogawa điều khiển (ảnh bên dưới) và Trung úy Seizō Yasunori thực hiện vào ngày 11 tháng 5 năm 1945. Trong
**_Isuzu_** (tiếng Nhật: 五十鈴) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Isuzu gần đền Ise thuộc khu vực
Trung tá Không quân Jimmy Doolittle (thứ hai từ bên trái) và đội bay của ông chụp ảnh trước một chiếc B-25 trên sàn đáp tàu sân bay USS _Hornet_ Cuộc **Không kích Doolittle** vào
Douglas SBD Dauntless (Dũng cảm) là kiểu máy bay ném bom bổ nhào chủ yếu trong giai đoạn nửa đầu của Thế Chiến II của Hải quân Hoa Kỳ. Chiến công đáng chú ý (và
**Hải chiến ngoài khơi Samar** hay **Trận Samar** là trận đánh mang tính quan trọng trong thời gian diễn ra cuộc Hải chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch
Chiếc **Grumman F4F Wildcat** (Mèo hoang) là máy bay tiêm kích trang bị cho tàu sân bay bắt đầu đưa vào phục vụ cho cả Hải quân Hoa Kỳ lẫn Không lực Hải quân Hoàng