✨Grumman F4F Wildcat

Grumman F4F Wildcat

Chiếc Grumman F4F Wildcat (Mèo hoang) là máy bay tiêm kích trang bị cho tàu sân bay bắt đầu đưa vào phục vụ cho cả Hải quân Hoa Kỳ lẫn Không lực Hải quân Hoàng gia Anh vào năm 1940. Mặc dù được Anh Quốc sử dụng trong chiến đấu trước tiên bởi ở châu Âu, Wildcat trở thành máy bay tiêm kích chủ lực trên tàu sân bay trong một năm rưỡi đầu của Hải quân Hoa Kỳ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Thế Chiến II. Kiểu FM Wildcat, một phiên bản cải tiến sản xuất bởi General Motors, tiếp tục phục vụ cho đến hết chiến tranh trên các tàu sân bay hộ tống, nơi không thể sử dụng những chiếc tiêm kích mới to và nặng hơn.

Thiết kế và phát triển

nhỏ|Grumman F4F-4 Wildcat thuộc Phi Đội VF-41, đầu năm 1942. Chiếc F4F-1 bắt đầu là phác thảo một kiểu máy bay cánh kép không được chế tạo để tham gia đấu thầu cho Hải quân, nhưng đã bị loại bởi chiếc máy bay cánh đơn Brewster Buffalo F2A-1. Nó được biến cải toàn bộ thành một máy bay cánh đơn ký hiệu XF4F-2 rồi tiếp tục đem ra đánh giá so sánh với Buffalo; và mặc dù XF4F-2 hơi nhanh hơn, Buffalo vẫn vượt trội và được chọn để sản xuất. Thử nghiệm trên chiếc XF4F-3 đưa đến việc đặt hàng kiểu mẫu sản xuất thử F4F-3, chiếc đầu tiên hoàn tất vào tháng 2 năm 1940. Pháp cũng đặt hàng kiểu này, gắn động cơ Wright R-1820 "Cyclone 9" hình tròn, nhưng Pháp thất thủ trước khi được giao hàng và những chiếc này được giao cho Hải quân Hoàng gia Anh và được đặt tên là "Martlet I". F4F-3 của Anh và Mỹ đều đưa vào sử dụng từ năm 1940 và đều được trang bị 4 súng máy Browning cỡ 0,50 in Hệ thống hạ cánh khác thường này nguyên được thiết kế bởi Grover Loening cho chiếc máy bay đầu tiên của hãng ông, và vì Leroy Grumman đã làm việc cho Loening trước khi tạo lập công ty của riêng mình, thiết kế này được nhượng quyền cho Grumman và sau đó được dùng cho mọi máy bay tiêm kích cánh kép của Grumman (từ chiếc FF-1 đến F3F) trong thập niên 30 cũng như trên chiếc thủy phi cơ cánh kép J2F Duck.

Tên gọi "Wildcat" được chính thức công bố vào ngày 1 tháng 10 năm 1941.

Lịch sử hoạt động

nhỏ|Grumman F4F-4 thuộc Phi Đội VF-11 trong [[trận đánh Guadalcanal, 1942.]] nhỏ|Grumman F4F-4 Wildcat trên chiếc tàu sân bay hộ tống [[USS Suwannee (CVE-27) vào cuối năm 1942.]] F4F được Hải quân Hoàng gia Anh dùng thay thế tạm thời cho Fairey Fulmar, phiên bản dành cho Hải quân Supermarine Spitfire chưa có vì nhu cầu rất lớn của Không quân Hoàng gia Anh. Trên chiến trường châu Âu, Wildcat ghi được chiến công đầu tiên ngày Giáng Sinh năm 1940, khi chiếc Martlet (tên gọi khi phục vụ tại Anh) đặt căn cứ trên đất liền tiêu diệt 1 chiếc máy bay ném bom Junkers Ju 88 bên trên căn cứ Hải quân Scapa Flow.. Kiểu máy bay này cũng tham gia tác chiến trên những chiếc tàu sân bay hộ tống nhỏ hơn. 6 chiếc cất cánh từ chiếc HMS Audacity cải biến từ tàu buôn cũ của Đức khoảng giữa năm 1941 và bắn rơi nhiều chiếc máy bay ném bom Fw 200 Condor của Đức Quốc xã trong những chiến dịch hộ tống vận tải rất hiệu quả. Đây là một trong những lần đầu tiên Wildcat xuất kích từ hạm đội. Hải quân Hoàng gia sau đó từ bỏ cách gọi tên riêng của họ cho những máy bay cung cấp từ Mỹ, và bắt đầu dùng tên của Hải quân Mỹ thay thế.

Wildcat bị vượt qua bởi Mitsubishi Zero, đối thủ chính trong giai đoạn đầu của Mặt trận Thái Bình Dương, nhưng giữ vững được nhờ chịu đựng được các tổn hại. Với vỏ giáp khá nặng và các thùng nhiên liệu tự hàn kín, khung máy bay của Grumman có thể sống sót nhiều hơn đối thủ Nhật nhẹ cân và không bọc giáp. Nhiều phi công Hải quân Mỹ cũng được cứu nhờ thiết bị dẫn đường ZB của F4F, cho phép họ tìm được tàu sân bay mẹ trong điều kiện tầm nhìn hạn chế, với điều kiện họ đến được trong tầm 30-dặm của cột mốc dẫn đường.

4 chiếc Wildcat của Thủy quân Lục chiến đóng vai trò nổi bật trong phòng thủ đảo Wake vào tháng 12 năm 1941. Máy bay của Hải quân và Thủy quân Lục chiến là lực lượng phòng không chủ yếu trong Trận đánh Biển San Hô và trận Midway, Wildcat đóng trên bộ có vai trò chủ chốt trong Chiến dịch Guadalcanal những năm 1942-43.), tiêu diệt 1.327 máy bay địch và chịu mất 191 chiếc Wildcat (tỉ lệ thắng-bại nói chung là 6,9:1). Đúng như vai trò tiêm kích hộ tống của nó, Wildcat chỉ thả 154 tấn bom trong suốt cuộc chiến.

Grumman nhận được đơn đặt hàng của Hải quân Mỹ sau đó, cũng như một số khác từ Pháp với động cơ Wright Cyclone; nhưng lại được sử dụng trong Hải quân Hoàng gia Anh sau khi Pháp thất trận, và đưa vào hoạt động ngày 8 tháng 9-1940. Những máy bay này, ký hiệu bởi Grumman là G-36A, có nắp động cơ khác biệt các kiểu F4F trước và cánh cố định, với dự định sẽ gắn vũ khí và thiết bị điện tử của Pháp sau khi giao hàng. Khi hoạt động ở Anh, ban đầu nó được gọi là Martlet I, nhưng không phải mọi chiếc Martlet đều có tính năng giống hệt như của Hải quân Mỹ. Martlet I được trang bị 4 súng máy M2 Browning cỡ nòng 0,50 in (12,7 mm) như F4F-3 với 450 viên đạn mỗi khẩu. Anh cũng nhận được một phiên bản với động cơ nguyên thủy Twin Wasp nhưng với nắp động cơ cải tiến, ký hiệu sản xuất là G-36B. Những chiếc này mang tên Anh là Martlet II. Cuối cùng là một phiên bản cánh cố định của G-36B, ký hiệu Marlet III. Trên giấy tờ nó được đổi tên là Marlet III(A) khi loạt thứ hai của Martlet III được giới thiệu.

Thiết kế kém cỏi trên những chiếc F4F đầu tiên khiến những khẩu súng máy vốn rất tin cậy thường bị kẹt đạn, một vấn đề chung cho vũ khí gắn trên cánh của nhiều máy bay tiêm kích Mỹ thời kỳ đầu. Trung úy Edward O'Hare đã từng lái một chiếc F4F-3 và trong vòng vài phút bắn rơi 5 máy bay ném bom Mitsubishi 2-động cơ tấn công tàu sân bay USS Lexington ngoài khơi Bougainville vào ngày 20 tháng 2 năm 1942. Nhưng trái ngược với thành tích của O'Hare, đồng đội của anh đã không thể tham gia vì súng máy không hoạt động.

Việc thiếu hụt bộ siêu tăng áp 2 tầng đưa đến việc phát triển kiểu F4F-3A, căn bản vẫn là chiếc F4F-3 nhưng có động cơ Pratt & Whitney R-1830-90 bố trí kiểu vòng tròn 1.200 mã lực chỉ có bộ siêu tăng áp đơn giản một tầng 2-tốc độ. Chiếc F4F-3A, đạt được tốc độ 312 mph ở 16.000 ft, được sử dụng song song cùng F4F-3, nhưng tính năng bay kém hơn nên không được phi công Hải quân Mỹ ưa chuộng. F4F-3A sử dụng ở Anh dưới tên Martlet III(B). nhỏ|Những chiếc Grumman F4F-4 Wildcat trên tàu sân bay [[USS Wasp (CV-7), 1942.]] Một phiên bản mới, F4F-4, đưa vào hoạt động năm 1942 với 6 súng máy và cánh gấp, cho phép xếp nhiều máy bay hơn trên tàu sân bay; đây là phiên bản hoạt động cuối cùng và là kiểu tham gia hoạt động chiến đấu nhiều nhất trong những năm đầu của chiến tranh, bao gồm Trận chiến Midway.Phiên bản này cũng ít được ưa chuộng, vì cùng một lượng dự trữ đạn lại phải trải ra cho thêm 2 khẩu súng máy, làm giảm thời gian tác xạ. Với 4 súng máy cỡ nòng 0,50 in và 450 viên đạn mỗi khẩu của chiếc F4F-3, phi công bắn được 34 giây; trong lúc 6 súng máy chỉ có 240 viên mỗi khẩu và bắn được 20 giây. Việc tăng số súng máy là do Hải quân Hoàng gia, muốn có hỏa lực mạnh hơn để đối phó với kẻ thủ Đức và Ý. Jimmy Thach được cho là đã nói "Một phi công không thể bắn trúng với 4 súng máy cũng sẽ trượt với 8 khẩu." Thêm súng và cánh xếp làm nặng thêm và giảm tính năng bay, F4F-4 chỉ đạt được vận tốc 318 mph ở 19.400 ft. Tốc độ lên cao càng kém hơn đáng kể: trong khi Grumman ước đoán lạc quan nó sẽ đạt ít nhất 1.950 ft mỗi phút, trong hoàn cảnh chiến đấu phi công nhận thấy F4F-4 chỉ lên cao được 500 đến 1.000 ft mỗi phút. Hơn nữa, cánh gấp của F4F-4 dự định cho phép xếp được 5 chiếc vào chỗ của 2 chiếc F4F-3, nhưng trong thực hành nó chỉ giúp tăng được khoảng 50% lượng máy bay Wildcat chở được trên những tàu sân bay hạm đội của Mỹ. Một biến thể của F4F-4, tên gọi F4F-4B cho những mục đích hợp đồng, được giao cho Anh với nắp cải tiến và động cơ Wright Cyclone, được đặt tên lại là Martlet IV.

F4F-7 là phiên bản trinh sát hình ảnh, vũ khí và vỏ giáp được loại bỏ và cánh "ướt" (chứa nhiên liệu trong cánh) không gấp được để có thể mang thêm 555 gallon nhiên liệu lên tổng cộng 700 gallon, tăng tầm bay lên 3.700 dặm. 21 chiếc được sản xuất. Ban đầu, GM sản xuất FM-1 (tương tự F4F-4, với 4 súng máy). Sau đó chuyển sang kiểu cải tiến FM-2 (dựa trên nguyên mẫu XF4F-8 của Grumman) được tối ưu hóa cho hoạt động trên tàu sân bay nhỏ, với động cơ mạnh hơn và cánh đuôi cao hơn cho phù hợp với lực mô-men xoắn. Tổng cộng, có 7.860 chiếc Wildcat được sản xuất. Người Anh nhận được 300 chiếc FM-1 do Eastern Aircraft sản xuất gọi là Martlet V trong những năm 1942 - 1943 và 340 chiếc FM-2 tên Wildcat VI. Tổng cộng có gần 1.200 Wildcat phục vụ trong Hải quân Hoàng gia. Đến tháng 1-1944, tên Martlet được loại bỏ và kiểu này được gọi chung là "Wildcat."

Các nước sử dụng

;

  • Hải quân Hoàng gia Anh ;
  • Hải quân Hoa Kỳ
  • Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ

Đặc điểm kỹ thuật (F4F-4)

nhỏ|F4F-4 đang được bảo trì 6 khẩu súng máy [[M2 Browning.]]

Đặc điểm chung

  • Đội bay: 01 người
  • Chiều dài: 8,8 m (28 ft 9 in)
  • Sải cánh: 11,6 m (38 ft 0 in)
  • Chiều cao: 2,8 m (9 ft 2.5 in)
  • Diện tích bề mặt cánh: 24,2 m² (260 ft²)
  • Kiểu cánh: NACA 23016 / NACA 4412
  • Trọng lượng không tải: 2.610 kg (5.760 lb)
  • Trọng lượng cất cánh lớn nhất: 3.610 kg (7.950 lb)
  • Động cơ: 1 x động cơ Pratt & Whitney R-1830-86 bố trí vòng tròn 2 hàng, công suất 1.200 mã lực (900 kW)

    Đặc tính bay

  • Tốc độ lớn nhất: 515 km/h (290 knot, 320 mph)
  • Tầm bay tối đa: 1.240 km (670 nm, 770 mi)
  • Trần bay: 12.000 m (39.500 ft)
  • Tốc độ lên cao: 9,9 m/s (1.950 ft/min)

    Vũ khí

  • 6 x súng máy Browning M2 12,7 mm (0,50 in) với 240 viên đạn mỗi khẩu.
  • 2 x bom 45 kg (100 lb)
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Chiếc **Grumman F4F Wildcat** (Mèo hoang) là máy bay tiêm kích trang bị cho tàu sân bay bắt đầu đưa vào phục vụ cho cả Hải quân Hoa Kỳ lẫn Không lực Hải quân Hoàng
**Grumman F6F Hellcat** (Mèo Hỏa Ngục) là một kiểu máy bay tiêm kích do hãng Grumman, Hoa Kỳ thiết kế và chế tạo. Hellcat cùng với chiếc Vought F4U Corsair trở nên những máy bay
**Grumman F3F** là loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh cuối cùng của Hoa Kỳ, nó được trang bị cho Hải quân Hoa Kỳ, và phục vụ giữa 2 cuộc thế chiến. Thiết kế
phải|nhỏ|300x300px|Nhân lực Hải quân Hoa Kỳ khảo sát Akutan Zero trên [[Đảo Akutan vào ngày 11 tháng 7 năm 1942]] **Akutan Zero** (hay còn được gọi là **Chiếc Zero của Koga** hoặc **Aleutian Zero**) là
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
__NOTOC__ Danh sách máy bay: :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## E ### EADS * EADS Mako/High Energy Advanced Trainer * EADS Phoenix ### EADS 3 Sigma * 3 Sigma Nearchos ### Eagle
**Trận chiến sân bay Henderson**, hay còn được bên Nhật Bản gọi là **trận Lunga Point**, là trận đánh diễn ra từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 26 tháng 10 năm 1942 tại Guadalcanal
**USS _Wake Island_ (CVE-65)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo đảo Wake tại
**USS _Tripoli_ (CVE-64)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo thành phố Tripoli, Libya
**USS _Shamrock Bay_ (CVE-84)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo một vịnh nhỏ
**USS _Petrof Bay_ (CVE–80)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo một vịnh nhỏ
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
Chiếc **Chance Vought F4U Corsair** là máy bay tiêm kích của Hoa Kỳ hoạt động rộng rãi trong giai đoạn nửa sau của Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên cũng
**_U-262_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**HMS _Biter_ (D97)** là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Avenger_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được cải biến từ một tàu buôn, nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế
**_Tenryū_** (tiếng Nhật: 天龍 - Hán-Việt: Thiên Long) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc. Tên
**_U-68_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-66_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-373_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**USS _White Plains_ (CVE-66)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo White Plains, New
**USS _Midway_ / _St. Lo_ (CVE–63)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên ban đầu của nó được
**USS _Manila Bay_ (CVE-61)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo vịnh Manila, Philippines,
**Richard Halsey Best** (sinh ngày 24 tháng 3 năm 1910 – mất ngày 28 tháng 10 năm 2001) là một phi công máy bay ném bom kiểu bổ nhào và chỉ huy một phi đoàn
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
Máy bay tiêm kích đánh chặn/tiêm kích-ném bom **Nakajima A6M2-N ** là một kiểu thủy phi cơ một chỗ ngồi dựa trên thiết kế chiếc Mitsubishi A6M Zero Kiểu 11. Tên chính thức của Hải
**_Tatsuta_** (tiếng Nhật: 龍田) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tenryū_ bao gồm hai chiếc. Tên _Tatsuta_ của nó được đặt
**_Aoba_** (tiếng Nhật: 青葉) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo
**_Furutaka_** (tiếng Nhật: 古鷹) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**_Kako_** (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Aoba_ bao gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo đỉnh núi Kinugasa tọa
**USS _Waller_ (DD-466/DDE-466)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**Lớp _Casablanca**_ là lớp tàu sân bay hộ tống với số lượng tàu sân bay lớn nhất từng được chế tạo, với năm mươi chiếc được đặt lườn, hạ thủy và nhập biên chế trong
**USS _Makassar Strait_ (CVE–91)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt nhằm ghi nhớ Trận
là một phi công Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sakai là phi công ách chủ bài ("Gekitsui-O", 撃墜王) của Hải quân Nhật Bản có thành tích cao
**Hải chiến mũi Esperance** hay theo Nhật Bản gọi là **Savo-tō Oki Kaisen** (サボ島沖海戦, サボとうおきかいせん) diễn ra từ ngày 11 đến ngày 12 tháng 10 năm 1942, là một trong nhiều trận hải chiến giữa
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**USS _Coral Sea_ / _Anzio_ (CVE-57)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên ban đầu của nó được