Lớp tàu sân bay _Kitty Hawk_ bao gồm bốn siêu hàng không mẫu hạm được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong thập niên 1960. Với thiết kế được cải tiến dựa trên lớp tàu sân bay Forrestal dẫn trước, chúng bao gồm (1961–2009), (1961–2003), (1965–1996), cùng với một biến thể là chiếc (1967–2007). Hiện nay tất cả đều đã xuất biên chế.
Những cải tiến so với lớp Forrestal
Những khác biệt lớn nhất so với lớp Forrestal là sàn đáp dài hơn và cách bố trí các thang nâng máy bay: hai thang nâng phía trước đảo cấu trúc thượng tầng, và hai phía sau gồm một chiếc mỗi bên mạn. Việc dời chỗ thang nâng số 4 từ phía trước mạn trái về phía sau mạn trái cải thiện đáng kể việc di chuyển máy bay, vì thang nâng phía trước bên mạn trái trên lớp Forrestal nằm ngay trên hướng hạ cánh hay cất cánh của hộ thống phóng giữa tàu, khiến nó hầu như vô dụng.
Ba xưởng đóng tàu khác nhau đã được huy động vào việc chế tạo các con tàu. Kitty Hawk được đóng tại xưởng New York Shipbuilding Corporation, Constellation tại Xưởng hải quân New York, còn America và John F. Kennedy tại xưởng Newport News Shipbuilding. John F. Kennedy giống như những chiếc dẫn trước về cách sắp xếp sàn cất-hạ cánh và hệ thống động lực, nhưng có nhiều điểm khác biệt đủ để được xem là một lớp phụ, thậm chí có tác giả xem nó là một lớp tàu riêng biệt. Hệ thống động lực bao gồm bốn turbine hơi nước Westinghouse, công suất , bốn trục chân vịt và tám nồi hơi Foster Wheeler có áp lực tối đa .
Chế tạo và những khác biệt trong thiết kế
Ba chiếc đầu tiên được thiết kế để bố trí hệ thống tên lửa đất đối không Terrier, tuy nhiên bệ phóng tên lửa và radar điều khiển AN/SPG-55 lại chiếm nhiều chỗ trong khi vai trò lại trùng lặp với khả năng phòng không của những tàu hộ tống, nên sau đó bị tháo dỡ. John F. Kennedy không mang tên lửa Terrier và được chế tạo với tên lửa tầm ngắn hơn thuộc hệ thống tên lửa phòng thủ điểm Sea Sparrow. Mọi chiếc trong lớp sau này đều được trang bị tên lửa Sea Sparrow tiêu chuẩn NATO và hệ thống phòng thủ tầm gần Phalanx CIWS để tự vệ. Đến năm 2001, Kitty Hawk nhận được hai bệ phóng tên lửa Rolling Airframe Missile thay thế cho dàn Sea Sparrow phía trước và thiết bị Phalanx CIWS. Một bộ chiến tranh điện tử SLQ-32 được bổ sung trong Chương trình Kéo dài tuổi thọ Phục vụ (SLEP Service Life Extension Program) trên Kitty Hawk và Constellation.
America có nhiều điểm khác biệt so với những chiếc dẫn trước trong lớp. Thay vì có hai mỏ neo phía trước, gồm một chiếc mỗi bên mạn, America không có mỏ neo bên mạn trái và thêm một mỏ neo phía đuôi tàu; thay đổi này là nhằm lấy chỗ trang bị một dàn sonar AN/SQS-23. Nó trở thành chiếc tàu sân bay Hoa Kỳ duy nhất sau Thế Chiến II được trang bị sonar, nhưng cuối cùng cũng bị tháo dỡ vào đầu những năm 1980. Nó cũng có một ống khói hẹp hơn so với những chiếc trước đó. tuy nhiên do nó nhận được nhiều cải biến trong quá trình chế tạo nên đã hình thành nên một lớp phụ của riêng nó, mà một số tác giả xem nó như một lớp tàu riêng biệt. Sau đó từ năm 1990 đến năm 1992, Constellation cũng được nâng cấp tương tự với chi phí 800 triệu Đô-la cùng tại Xưởng hải quân Philadelphia. Chương trình này dự định sẽ kéo dài thời gian phục vụ của các con tàu thêm 15 năm. John F. Kennedy không được đại tu theo Chương trình SLEP, thay vào đó nó được nâng cấp từ năm 1993 đến năm 1995 với phí tổn 491 triệu Đô-la. Đây là dự án sau cùng mà Xưởng hải quân Philadelphia thực hiện trước khi xưởng tàu bị đóng cửa. America cũng được dự định để nâng cấp theo chương trình tương tự tiếp theo sau Constellation; tuy nhiên nó lại được cho xuất biên chế vào ngày 9 tháng 8, 1996, trong một giai đoạn mà ngân sách quốc phòng bị cắt giảm sau khi Chiến tranh Lạnh đã kết thúc. America ở trong một tình trạng vật chất rất tệ hại khi nó ngừng hoạt động, nên đã không được giữ lại để bảo tồn cho dù có những giá trị lịch sử. Nó được sử dụng như một mục tiêu thực hành tác xạ, và bị đánh đắm vào ngày 14 tháng 5, 2005.
Constellation được cho xuất biên chế vào ngày 7 tháng 8, 2003, và tiếp theo đó là John F. Kennedy vào ngày 23 tháng 3, 2007. Chỉ còn lại Kitty Hawk tiếp tục phục vụ cho đến đầu năm 2008, khi nó được chiếc thay thế để phục vụ trên tuyến đầu tại Nhật Bản. Nó quay trở về Hoa Kỳ sau khi chuyển giao, và xuất biên chế vào ngày 12 tháng 5, 2009.
Những chiếc trong lớp
Những hình ảnh
Tập tin:USS John F Kennedy (CV 67) island outboard 2004.jpg|Ống khói của _John F. Kennedy_ nghiêng ra phía ngoài để giúp phân tán khói xa sàn đáp.
Tập tin:USS America (CV-66) island 1976.jpg|Đảo cấu trúc thượng tầng của _America_ vào giữa những năm 1970, vẫn còn trang bị radar AN/SPG-55 để dẫn đường tên lửa Terrier.
Tập tin:USS Constellation (CV-64) starboard amidships.jpg|Đảo cấu trúc thượng tầng của _Constellation_ vào đầu những năm 1980, lưu ý khác biệt cấu hình ống khói so với _America_ và _John F. Kennedy_, và vị trí của radar dẫn đường tên lửa Terrier.
Tập tin:USS Kitty Hawk (CV-63) bow 2007.jpg|Nhìn từ phía mũi _Kitty Hawk_, 1970. Lưu ý vị trí của mỏ neo phía trước và bệ phóng tên lửa Rolling Airframe ở cả hai bên mạn thay cho CIWS và NSSM.
Tập tin:USS America (CV-66) low view of stbd bow.jpg|Mũi tàu của _America_ với những khác biệt về mỏ neo so với những chiếc trước đó.
Tập tin:USS Constellation (CV-64) aerial Battle E.jpg|Không ảnh của _Constellation_, trình bày hình dạng và cách bố trí sàn đáp.
Tập tin:USS John F Kennedy (CV-67) port stern view 2004.jpg|Đuôi tàu bên mạn trái của _John F. Kennedy_, trình bày thang nâng và vũ khí phòng không.
Tập tin:USS Independence (CV-62) and USS Kitty Hawk (CV-63) at Pearl Harbor crop.jpg| (bên trái), một chiếc lớp _Forrestal_, và _Kitty Hawk_ (bên phải)
Tập tin:USS John F Kennedy (CV-67) and USS Saratoga (CV-60) underway crop.jpg| và , một chiếc lớp _Forrestal_. Lưu ý khác biệt về cách bố trí thang nâng máy bay.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu sân bay _Kitty Hawk**_ bao gồm bốn siêu hàng không mẫu hạm được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong thập niên 1960. Với thiết kế được cải tiến dựa trên lớp tàu
**Lớp tàu sân bay _Forrestal**_ là một lớp bao gồm bốn chiếc tàu sân bay được thiết kế và chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào thập niên 1950. Đây là lớp đầu tiên
**USS _Kitty Hawk_ (CVA-63/CV-63)** là một siêu hàng không mẫu hạm của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc đầu tiên trong số bốn chiếc của lớp tàu sân bay mang tên nó nhập biên
**_Phúc Kiến_** (**18**; ) hay tàu sân bay **Loại 003** là một hàng không mẫu hạm thế hệ thứ hai của Trung Quốc đang được biên chế cho Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân
Tàu ngầm lớp Victor, ký hiệu theo Liên Xô: **Project 671 _Yorsh**_, **Project 671RT _Syomga_** và **Project 671RTM/RTMK _Shchuka**_, (tên gọi của NATO **Victor I**, **Victor II** và **Victor III**, là một lớp tàu ngầm
**USS _John F. Kennedy_ (CVA-67/CV-67)** là một siêu hàng không mẫu hạm, chiếc duy nhất trong phân lớp của nó, vốn là một biến thể của lớp tàu sân bay _Kitty Hawk_, được Hải quân
**USS _America_ (CVA/CV-66)** là một siêu hàng không mẫu hạm lớp _Kitty Hawk_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong thập niên 1960. Nhập biên chế năm 1965, nó trải qua phần lớn quãng
**USS _Constellation_ (CV-64)** là một siêu hàng không mẫu hạm lớp _Kitty Hawk_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong thập niên 1960. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ
**HMS _Vengeance_ (R71)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ cho hải quân
**USS _Midway_ (CVB/CVA/CV-41)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu sân bay đầu tiên được đưa ra hoạt động sau
**USS _Ranger_ (CV/CVA-61)** là chiếc thứ ba trong số bốn chiếc siêu hàng không mẫu hạm lớp _Forrestal_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Thập niên 1950. Cho dù cả bốn chiếc trong
**McDonnell Douglas F/A-18 Hornet** **(Ong vò vẽ)** là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết,
thumb|USS _Abraham Lincoln_ và các máy bay từ Không đoàn Không quân tàu sân bay số 2 (CVW-2) thực hiện một cuộc trình diễn trên không ở [[Biển Đông vào ngày 8 tháng 5 năm
**USS _John A. Bole_ (DD-755)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Theodore E. Chandler_ (DD-717)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Stoddard_ (DD-566)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _John F. Kennedy**_, theo tên John Fitzgerald Kennedy (1917-1963), vị Tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ: * là một tàu
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt, cùng một chiếc khác dự định đặt, cái tên **USS _Constellation**_, mang ý nghĩa "một chùm sao mới" thể hiện trên quốc kỳ Hoa
**Mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo** (tiếng Anh: **Apollo command and service module**, viết ngắn gọn là **Apollo CSM**) là một trong hai thành phần chính cấu tạo nên tàu vũ trụ Apollo của
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực
thumb|Một hạm đội đa quốc gia gồm 5 nước trong [[chiến dịch Tự do bền vững trên biển Oman. Năm cột giảm dần, từ trên cùng bên trái xuống dưới cùng bên phải: MM _Maestrale_
Khu vực eo biển Đài Loan Sự tranh cãi về **vị thế chính trị Đài Loan** xoay quanh tại việc Đài Loan, gồm cả quần đảo Bành Hồ (_Pescadores_ hoặc _Penghu_), có nên tiếp tục