✨Illustrious (lớp tàu sân bay)

Illustrious (lớp tàu sân bay)

Lớp tàu sân bay _Illustrious_ bao gồm những tàu sân bay hạm đội của Hải quân Hoàng gia Anh và là những tàu chiến Anh Quốc quan trọng nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng được đặt lườn vào cuối những năm 1930 như một phần của chương trình tái vũ trang quân đội Anh nhằm đối phó lại những mối đe dọa xuất hiện từ phía Đức Quốc xã, Phát xít Ý và Đế quốc Nhật.

Lớp Illustrious bao gồm bốn chiếc: HMS Illustrious, HMS Formidable, HMS Victorious và HMS Indomitable; riêng chiếc cuối cùng Indomitable được chế tạo với thiết kế thay đổi đôi chút, bao gồm một sàn chứa máy bay thứ hai bên dưới sàn chứa chính và chỉ dài phân nửa. Hai tàu sân bay tiếp theo sau thuộc lớp Implacable cũng được chế tạo với thiết kế thay đổi sao cho có thể chở một lượng máy bay lớn hơn. ImplacableIndefatigable có hai tầng chứa máy bay, đánh đổi lại khoảng trần bị giới hạn chỉ cao có 4,2 m (14 ft).

Mỗi chiếc trong lớp đều đã có vai trò nổi bật trong các trận chiến trong Thế Chiến II: HMS Victorious cùng với tàu sân bay HMS Ark Royal tham gia săn đuổi chiếc thiết giáp hạm Đức Bismarck cùng chiếc HMS Ark Royal, IllustriousFormidable tham gia nhiều trận chiến tại mặt trận Địa Trung Hải trong những năm 1940 và 1941. Cả ba đã hoạt động cùng hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc vào năm 1945.

Thiết kế và khái niệm

Lớp Illustrious được thiết kế trong quy định cho phép của Hiệp ước Hải quân London thứ hai, giới hạn tải trọng của tàu sân bay không vượt quá 23.000 tấn. Chúng khác biệt đáng kể về khái niệm so với chiếc tàu sân bay hiện đại duy nhất của Hải quân Anh vào lúc đó, HMS Ark Royal, và có thể được mô tả là gần gũi với các tàu sân bay Hoa Kỳ đương thời thuộc các lớp YorktownEssex. Lớp Illustrious tiếp theo sau lớp Yorktown nhưng dẫn trước lớp Essex.

Trong khi các thiết kế khác chú trọng đến một lực lượng không quân lớn như là phương tiện bảo vệ chủ yếu, lớp Illustrious dựa trên hỏa lực pháo phòng không của chính nó và phương cách phòng vệ thụ động dựa trên sàn đáp được bọc thép để tồn tại; làm giảm bớt số máy bay có thể mang theo. Các tàu sân bay khác có lớp vỏ giáp bọc thép ở các lớp sàn bên dưới (sàn chứa máy bay hoặc sàn chính); lớp sàn đáp không được bảo vệ cùng hầm chứa máy bay bên dưới tạo nên một phần của cấu trúc thượng tầng, và không được bảo vệ cho dù là những quả bom nhỏ. Tuy nhiên, hầm chứa máy bay có thể làm lớn hơn, và do đó mang được nhiều máy bay hơn; nhưng sự khác biệt về dung lượng máy bay giữa những chiếc tàu sân bay này so với các đồng nghiệp Mỹ chủ yếu là do học thuyết hoạt động của Hải quân Mỹ, vốn cho phép sử dụng các chỗ đậu cố định máy bay trên sàn đáp nhằm tăng dung lượng máy bay. Hầm chứa máy bay của lớp Illustrious rộng khoảng 85% so với chiếc USS Enterprise, nhưng Enterprise thường chở 50% số máy bay của nó trên sàn đáp. Hai hầm chứa máy bay của chiếc Indomitable trong thực tế còn rộng hơn so với Enterprise, nhưng nó lại mang theo ít máy bay hơn vì nó không có các chỗ đậu cố định trên sàn đáp. Đến những năm 1944 - 1945, các tàu sân bay Hải quân Hoàng gia bắt đầu có các chỗ đậu cố định với kích cỡ tương đương với các đồng nghiệp Mỹ, và điều này đã giúp làm tăng đáng kể dung lượng máy bay.

Trong lớp Illustrious, vỏ giáp bảo vệ được thực hiện ở mức sàn đáp, vốn trở thành lớp sàn cứng chắc, và tạo nên một hầm chứa máy bay dạng hộp được bọc thép vốn là một phần của cấu trúc thân tàu. Tuy nhiên, để có thể thực hiện điều này mà không làm gia tăng trọng lượng rẽ nước, người ta phải thu nhỏ đáng kể kích thước và chiều cao của sàn chứa. Ba chiếc sau này, Indomitable, IndefatigableImplacable, được thiết kế lại với hai tầng sàn chứa máy bay cho phép chở theo một liên đội máy bay lớn hơn so với thiết kế ban đầu. Thiết kế nguyên thủy được dự định với 36 máy bay, nhưng sau này các con tàu thường hoạt động cho đến 72 chiếc. Tuy nhiên, khoảng trống trên trần các hầm chứa máy bay thấp hơn (4,88 m/16 ft của hầm bên trên và 4,27 m/14 ft của hầm bên dưới đối với những chiếc sau này) nên không thuận lợi so với 5,3 m (17 ft 3 in) của lớp Essex, 5,38 m (17 ft 6 in) của Enterprise và 6,1 m (20 ft) của chiếc USS Saratoga. Điều này đã giới hạn việc hoạt động đối với các kiểu máy bay lớn, đặc biệt là sau chiến tranh.

Sơ đồ vỏ giáp được thiết kế để có thể chịu đựng bom 454 kg (1.000 lb) hoặc nặng hơn nếu chạm ở một góc xiên; tại các chiến trường nhà và Địa Trung Hải, có khả năng là các tàu sân bay sẽ phải hoạt động trong phạm vi tấn công của máy bay xuất phát từ đất liền. Sàn đáp có lớp vỏ giáp dày 76 mm (3 inch), được vây kín bởi hông và vách ngăn dày 112 mm (4,5 inch). Đai giáp chính bảo vệ quanh các khu vực phòng máy, kho xăng dầu, hầm đạn và kho bom. Các thang nâng máy bay được đặt bên ngoài hầm chứa máy bay ở hai đầu, với lối ra vào thông qua các cửa lùa bọc thép tại các vách ngăn cuối. Sau này trong chiến tranh, người ta thấy những quả bom xuyên thủng được và phát nổ bên trong hầm chứa máy bay bọc thép có thể gây biến dạng cấu trúc, vì chúng là một phần của cấu trúc con tàu.

Vũ khí trang bị cho lớp tàu này tương tự như của chiếc Ark Royal, bao gồm tám tháp pháo 4,5 inch nòng đôi. Vì con tàu dựa trên hỏa lực của chính nó, chứ không phải là máy bay, để tự bảo vệ, các khẩu pháo được bố trí đủ cao để có thể ngang qua sàn tàu. Máy bay được tháo bỏ nhiên liệu và cất dưới sàn chứa để bảo vệ trong khi bị không kích. Lớp Illustrious được trang bị bốn tháp kiểm soát hỏa lực góc cao (HACS) để điều khiển các khẩu pháo 4,5 inch.

Số phận của lớp

IllustriousFormidable không tồn tại lâu sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Giống như tàu sân bay Mỹ Enterprise đương thời, chúng phải chịu đựng cuộc Thế chiến 2 kéo dài trong vòng 6 năm với nhiều tổn thất nên bị hư hại và hao mòn đi nhiều. Việc sửa chữa và tân trang chúng còn tốn kém hơn so với việc đóng mới thay thế. Illustrious bị tháo dỡ vào năm 1957. Formidable bị tháo dỡ vào năm 1953. Indomitable được tái trang bị rộng rãi, bao gồm các lò hơi mới từ năm 1948 đến năm 1950 và được phục vụ như là soái hạm của Hạm đội Nhà. Nó bị một vụ nổ xăng ở boong chứa máy bay vào đầu năm 1953 và được đưa vào lực lượng dự bị sau cuộc Duyệt binh đăng quang tháng 10 năm 1953 của Nữ hoàng Elizabeth II rồi bị loại bỏ vào năm 1955. Chiếc cuối cùng trong lớp, Victorious, có cuộc đời phục vụ sau chiến tranh kéo dài, khi nó được tái cấu trúc lại khá tốn kém để có thể hoạt động với máy bay phản lực trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Nó được cho nghỉ hưu vào năm 1968 sau một vụ hỏa hoạn nhỏ và bị tháo dỡ vào năm 1969.

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu sân bay _Illustrious**_ bao gồm những tàu sân bay hạm đội của Hải quân Hoàng gia Anh và là những tàu chiến Anh Quốc quan trọng nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ
**Lớp tàu sân bay _Colossus**_ bao gồm những tàu sân bay hạng nhẹ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mười sáu chiếc đã được vạch kế
**Lớp tàu sân bay _Implacable**_ là những tàu sân bay hạm đội được Hải quân Hoàng gia Anh đưa ra hoạt động vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Thiết kế
**Lớp tàu sân bay _Forrestal**_ là một lớp bao gồm bốn chiếc tàu sân bay được thiết kế và chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào thập niên 1950. Đây là lớp đầu tiên
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
nhỏ|300x300px|[[Hàng không mẫu hạm Ý Giuseppe Garibaldi]] **Tàu sân bay hạng nhẹ** hay **tàu sân bay hạng nhẹ hạm đội** là một kiểu tàu sân bay nhỏ hơn tàu sân bay tiêu chuẩn trong hải
"Taihō" (tiếng Nhật: 大鳳 – Đại Phụng) là một tàu sân bay hạm đội của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II. Nó chỉ có một thời gian hoạt động ngắn ngủi
**HMS _Illustrious_ (87)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc tàu chiến thứ tư của Anh Quốc mang cái tên
**HMS _Colossus_ (R15)** là một tàu sân bay hạng nhẹ có một lịch sử phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh ngắn ngủi. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Anh,
**HMS _Indomitable_ (92)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh thuộc lớp _Illustrious_ cải tiến. Nó từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các chiến trường Ấn
**HMS _Implacable_ (R86)** là một tàu sân bay hạm đội được Hải quân Hoàng gia Anh đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó,
**HMS _Ark Royal_ (91)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh đã từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là loại tàu sân bay kiểu cũ có
**HMS _Indefatigable_ (R10)** là một tàu sân bay hạm đội thuộc lớp _Implacable_ được Hải quân Hoàng gia Anh đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã cùng chiếc tàu
**HMS _Pioneer_ (R76)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được hoàn thành và đưa ra hoạt động khi Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp kết thúc,
**HMS _Victorious_ (R38)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các hoạt động của nó trong những năm 1941 và 1942
**USS _Saratoga_ (CV-3)** là chiếc tàu chiến thứ năm trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được mang tên **Saratoga**, tên đặt theo trận chiến Saratoga quan trọng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập
**Máy bay ném/thả ngư lôi** là một máy bay quân sự được thiết kế chủ yếu để tấn công tàu thuyền bằng ngư lôi trên không. Máy bay ném ngư lôi đã tồn tại ngay
**HMS _Formidable_ (67)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh thuộc lớp _Illustrious_. Nó từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các chiến trường Địa Trung Hải,
**HMS _Unicorn_ (I72)** là một tàu sân bay hạng nhẹ và tàu bảo trì máy bay của Hải quân Hoàng gia Anh từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai từ năm 1943
**Supermarine Attacker** là một loại máy bay tiêm kích phản lực hải quân một chỗ, được chế tạo bởi hãng Supermarine cho Binh chủng Không quân Hải quân Hoàng gia Anh (FAA) thuộc Hải quân
**HMS _Liverpool_ (C11)**, tên được đặt theo thành phố cảng Liverpool phía Tây Bắc nước Anh, là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Town của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đã phục
**HMS _Kent_ (54)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và là chiếc dẫn đầu cho lớp phụ _Kent_. Nó đã tham gia hoạt động
**Lớp thiết giáp hạm** **_Duilio_** (thường được gọi đầy đủ là **_Caio Duilio_** theo tài liệu của Ý, hoặc **lớp thiết giáp hạm** **_Andrea Doria_** trong các tài liệu tiếng Anh) là một lớp thiết
**HMS _Euryalus_ (42)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham
**HMS _Berwick_ (65)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu cho lớp _County_ thuộc lớp phụ _Kent_. _Berwick_ đã tham gia hoạt động trong
**HMS _Birmingham_ (C19)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp Town (1936) từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều
**HMS _York_ (90)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp _York_. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai
**HMS _Argonaut_ (61)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó ngừng hoạt
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**HMS _Warspite_ (03)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Queen Elizabeth_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó từng có mặt trong trận Jutland trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, rồi hoạt động
Hai tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh, và một chiếc khác được dự định, mang cái tên **HMS _Indomitable**_: * HMS _Indomitable_ (1907) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên trên thế giới
**_Vittorio Veneto_** là một thiết giáp hạm lớp _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý (Regia Marina) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một trận
Việc **đánh chìm _Prince of Wales_ và _Repulse**_ là một cuộc hải chiến vào giai đoạn mở đầu của Chiến tranh Thái Bình Dương, đã minh họa cho hiệu quả của không kích chống lại
nhỏ|phải|Nữ vương Anh [[Elizabeth II và lực lượng sĩ quan ưu tú trong quân đội Anh ở một lễ duyệt binh]] nhỏ|phải|Lực lượng đặc nhiệm của Lính thủy đánh bộ Vương quốc Anh đang tác
**Louis Francis Albert Victor Nicholas Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ nhất của Miến Điện** (tên khai sinh là Hoàng tử Louis của Battenberg; 25 tháng 6 năm 1900 – 27 tháng 8 năm 1979), là
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của