✨HMS Victorious (R38)
HMS Victorious (R38) là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các hoạt động của nó trong những năm 1941 và 1942 bao gồm các chiến dịch nổi tiếng chống lại chiếc thiết giáp hạm Đức Bismarck, hộ tống nhiều đoàn tàu vận tải đến biển Bắc Cực và Chiến dịch Pedestal tăng viện cho đảo Malta; và trong năm 1943 từng được cho Hải quân Mỹ mượn trong một thời gian ngắn, phục vụ tại Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương dưới tên gọi USS _Robin_. HMS Victorious đã nhiều lần tham gia các cuộc tấn công chiếc thiết giáp hạm Đức Tirpitz. Việc loại trừ được mối nguy cơ từ phía Hải quân Đức Quốc xã đã cho phép bố trí nó đến Hạm đội Viễn Đông tại Colombo, và sau đó là Thái Bình Dương trong những hoạt động cuối cùng của cuộc chiến tranh chống lại Đế quốc Nhật Bản.
Sau chiến tranh, quãng đời phục vụ còn lại của nó xen kẽ những đợt được đưa về lực lượng dự bị và một đợt nâng cấp rộng rãi trong những năm 1950. Việc cắt giảm đáng kể lực lượng Hải quân Anh vào cuối những năm 1960 đã đặt dấu chấm hết cho lần phục vụ cuối cùng và chiếc tàu sân bay bị tháo dỡ vào năm 1969.
Thiết kế và chế tạo
HMS Victorious là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp Illustrious được đặt hàng trong Chương trình Hải quân 1936. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Vickers-Armstrong tại Newcastle-Upon-Tyne vào năm 1937 và được hạ thủy hai năm sau đó. Tuy nhiên việc đưa nó ra hoạt động bị chậm trễ, vì những công việc cuối cùng để hoàn tất nó bị kéo dài cho đến năm 1941, do nhu cầu tăng vọt của những chiếc tàu hộ tống để tham gia Trận chiến Đại Tây Dương.
Lịch sử hoạt động
Truy đuổi Bismarck
Vào năm 1941, chỉ hai tuần sau khi được đưa vào hoạt động, nó thực hiện hoạt động tác chiến đầu tiên khi tham gia cuộc truy đuổi chiếc thiết giáp hạm Đức Bismarck tại Bắc Đại Tây Dương. Thoạt tiên được dự định nằm trong thành phần của lực lượng hộ tống cho đoàn tàu vận tải WS-8B đi đến Trung Đông, Victorious hầu như khó có thể góp phần vào việc truy đuổi chiếc Bismarck khi chỉ có một phần tư số máy bay theo biên chế được chất lên tàu. Di chuyển cùng thiết giáp hạm HMS King George V, tàu chiến-tuần dương Repulse và 4 tàu tuần dương hạng nhẹ, Victorious được vội vã bố trí để hỗ trợ việc săn đuổi chiếc tàu chiến Đức.
Vào ngày 24 tháng 5 năm 1941, Victorious tung ra chín máy bay ném bom-ngư lôi cánh kép Fairey Swordfish và hai máy bay tiêm kích Fulmar. Những chiếc Swordfish, dưới sự chỉ huy của Eugene Esmonde vốn có biệt danh là "Stringbag" vốn cũng là tên lóng của kiểu máy bay Swordfish, cất cánh trong hoàn cảnh thời tiết xấu và đối mặt cùng hỏa lực phòng không dày đặc bắn lên từ chiếc Bismarck. Kết quả chỉ có một quả ngư lôi duy nhất đánh trúng kém hiệu quả vào đai giáp của chiếc thiết giáp hạm. Vào ngày 5 tháng 6, nó được phân đến Gibraltar, và cùng với chiếc tàu sân bay HMS Ark Royal và một lực lượng hộ tống, thực hiện nhiệm vụ vận chuyển máy bay Hawker Hurricane đến Malta nhằm giúp giảm nhẹ bớt áp lực của cuộc bao vây hòn đảo này như một phần của Chiến dịch Tracer. Victorious quay trở về căn cứ hải quân tại Scapa Flow cùng với các tù binh bắt được là thủy thủ đoàn của chiếc Gonzenheim.. Đến tháng 8 năm 1943, Victorious và Saratoga hỗ trợ trên không cho lực lượng Đồng Minh trong cuộc đổ bộ bộ lên New Georgia (Chiến dịch Cartwheel). Sang tháng 9 năm 1943, Victorious quay trở về Scapa Flow, đi đến căn cứ hải quân tại đây vào giữa tháng 10.. Trong hoạt động này, Victorious trở thành chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Hoàng gia Anh đưa ra sử dụng những chiếc máy bay tiêm kích F4U Corsair trong chiến đấu. Lực lượng đặc nhiệm quay trở về Scapa Flow ba ngày sau đó.
Trong tháng 4 và tháng 5, Victorious dự định tung ra ba đợt tấn công khác nhắm vào chiếc Tirpitz (các chiến dịch Planet, Brawn và Tiger Claw) nhưng chúng bị hủy bỏ do thời tiết xấu và được thay thế bằng các đợt không kích tàu bè đối phương. Vào ngày 30 tháng 5, một cuộc tấn công bằng ngư lôi cảm âm được chiếc tàu ngầm Đức U-957 thực hiện không thành công, và Victorious thực hiện thêm nhiều cuộc tấn công tàu bè khác ngoài khơi Na Uy trong Chiến dịch Lombard.
Sau một giai đoạn chuẩn bị ngắn, Victorious tham gia một loạt các cuộc không kích vào các căn cứ Nhật Bản. Bắt đầu bằng chiến dịch Crimson vào ngày 25 tháng 7, nó cùng với tàu sân bay HMS Illustrious tiến hành không kích các sân bay gần Sabang, Sumatra. Vào cuối tháng 8, nó hỗ trợ trên không cho các tàu chiến của Hạm đội Viễn Đông tiến hành các chiến dịch tìm kiếm-giải cứu trên biển cho các máy bay Lục quân Mỹ trong các cuộc không kích nhắm vào Sumatra trong Chiến dịch Boomerang. Ngày 29 tháng 8, cùng với các tàu sân bay HMS Illustrious và Indomitable và được hộ tống bởi HMS Howe, Victorious tiến hành không kích xuống Padang, Indaroeng và Emmahaven (Chiến dịch Banquet). Sau một giai đoạn nghỉ ngơi ngắn, ngày 18 tháng 9, Victorious và Indomitable tấn công các nhà ga đường sắt tại Sigli, Sumatra; rồi tiếp nối bằng nhiệm vụ trinh sát-hình ảnh trên quần đảo Nicobar (chiến dịch Light). Chính trong hoạt động này đã xảy ra sự kiện bắn nhầm vào tàu ngầm HMS Spirit, nhưng may mắn là đã không có tổn thất về nhân mạng.
nhỏ|trái|HMS Victorious bốc cháy sau khi bị ba máy bay [[thần phong|kamikaze đánh trúng ngoài khơi Okinawa, ngày 9 tháng 5 năm 1945]]
Vào đầu tháng 2 năm 1945, Victorious gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 113 tại Sydney nhằm chuẩn bị để hoạt động cùng Đệ Ngũ hạm đội Hoa Kỳ. Đến cuối tháng, Lực lượng Đặc nhiệm 113 rời Sydney di chuyển đến căn cứ tiền phương tại đảo Manus, về phía Bắc New Guinea, rồi tiếp tục gia nhập Hạm đội 5 tại Ulithi vào ngày 25 tháng 3 trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 57, hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Okinawa. Nhiệm vụ được giao cho lực lượng Anh là vô hiệu hóa các sân bay tại Sakishima Gunto. Từ cuối tháng 3 đến ngày 25 tháng 5, các tàu sân bay Anh Victorious, Illustrious (sau này được thay thế bởi chiếc Formidable), Indefatigable và Indomitable hình thành nên Hải đội Tàu sân bay 1 dưới quyền chỉ huy của Philip Vian, và chúng đã tham gia không kích các sân bay trên quần đảo Sakishima (Chiến dịch Iceberg I và Iceberg II) và tại Đài Loan (Chiến dịch Iceberg Oolong).
Các tàu sân bay Anh bị máy bay tấn công cảm tử kamikaze tấn công, và Victorious bị đánh trúng vào các ngày 4 và 9 tháng 5 cùng một lần suýt trúng vào ngày 1 tháng 4, nhưng lớp sàn đáp được bọc thép đã chịu đựng được cú va chạm. Chiếc tàu sân bay vẫn ở lại vị trí chiến đấu và đưa trở lại hoạt động chỉ vài giờ sau đó, bất chấp những hư hại gây ra cho thang nâng máy bay và ống dẫn hơi nước trên cấu trúc thượng tầng của nó. Ba người đã thiệt mạng cùng 19 người khác trong thủy thủ đoàn bị thương.
Trong nữa sau của tháng 7, máy bay của Victorious tham gia một loạt các cuộc tấn công vào tàu bè, phương tiện vận chuyển và sân bay Nhật trên đảo Honshu và chung quanh vùng biển nội địa Nhật Bản. Đáng chú ý là trong một cuộc tấn công vào tháng 7, máy bay của Phi đội Không lực Hải quân 849 của Victorious đã tìm thấy chiếc tàu sân bay hộ tống Nhật Bản Kaiyo tại vịnh Beppu, Kyūshū và tấn công nó, gây hư hại nghiêm trọng và loại nó khỏi vòng chiến cho đến khi chiến tranh kết thúc. Đây là một sự kiện khá hiếm hoi, vì máy bay Anh Quốc không được giao các nhiệm vụ tác chiến tại các căn cứ chủ lực của hải quân Nhật Bản. Người Mỹ, vì những lý do chính trị, đã giữ lại những mục tiêu này cho chính họ.
Hai quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima và Nagasaki vào các ngày 6 và 9 tháng 8 tương ứng đã thúc đẩy việc Nhật Bản chấp nhận đầu hàng không điều kiện vào ngày 15 tháng 8. Vào lúc đầu hàng, kết cuộc của chiến tranh hầu như đã rõ ràng và Victorious vào ngày 12 tháng 8 cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 37 đã quay về Manus rồi đi đến Sydney. Việc cho rút lui có vẽ quá sớm này thực ra là trì hoãn một chuyến đi dự định thực hiện vào ngày 10 tháng 8, chuẩn bị cho tấn công vào các đảo chính quốc Nhật Bản (chiến dịch Olympic). Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc đã đồng ý ở lại hoạt động thêm một ngày, nhưng không thể trì hoãn thêm nữa do sự cạn kiệt nhiên liệu đã đến mức báo động. Thêm vào đó, những hỏng hóc về bánh lái xảy ra cho Victorious tại Ấn Độ Dương vào cuối năm 1944 được tin là vẫn ảnh hưởng đến hoạt động của chiếc tàu sân bay.
Chiếc tàu sân bay được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 10 năm 1947, và sau đó gia nhập Hải đội Huấn luyện của Hạm đội Nhà Anh Quốc vào năm 1948. Thân tàu được mở rộng, sâu hơn và dài hơn; động cơ được thay thế bằng kiểu nồi hơi Foster-Wheeler; chiều cao của sàn chứa máy bay được nâng cao; kiểu pháo mới 76 mm (3 inch) được trang bị; và một sàn đáp chéo góc được bổ sung. Hệ thống radar của nó cũng được thay đổi đáng kể để bao gồm các thiết bị mới nhất.
Kết thúc
nhỏ|Một máy bay [[A-1 Skyraider|EA-1F Hải quân Mỹ thực hiện một cú chạm-rồi-bay trên HMS Victorious vào năm 1963]] Vào năm 1968, không lâu trước khi được cho tái hoạt động sau một đợt đại tu, một đám cháy nhỏ đã xảy ra tại phòng ăn của hạ sĩ quan, khiến một người thiệt mạng và hai người bị thương, vốn đã được nhanh chóng dập tắt, và con tàu quay trở lại hoạt động bình thường vào ngày hôm sau. Tuy nhiên, sự kiện này lại trùng khớp với việc cắt giảm ngân sách quốc phòng, và cùng với một quyết định vào năm 1966 sẽ loại bỏ máy bay cánh cố định khỏi Không lực Hải quân, đã đưa đến quyết định, với thời gian báo trước ngắn ngủi, sẽ không đưa chiếc Victorious trở lại hoạt động. Thuyền trưởng của con tàu được thông báo về quyết định này chỉ một ngày trước buổi lễ được dự tính tổ chức nhằm chào mừng sự hoạt động trở lại của con tàu. Dù sao buổi lễ này vẫn được thủy thủ đoàn của con tàu thực hiện. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1968 và đưa vào danh sách loại bỏ vào năm 1969. Nó được bán trong năm đó cho British Shipbreakers và được kéo đến Căn cứ Hải quân Faslane vào ngày 13 tháng 7 năm 1969, nơi nó được tháo dỡ.