✨Supermarine Attacker
Supermarine Attacker là một loại máy bay tiêm kích phản lực hải quân một chỗ, được chế tạo bởi hãng Supermarine cho Binh chủng Không quân Hải quân Hoàng gia Anh (FAA) thuộc Hải quân Hoàng gia Anh. Đây là loại máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên của FAA. Dự án có mục đích cung cấp một loại tiêm kích tạm thời cho RAF trong khi loại máy bay khác là Gloster E.1/44 sử dụng động cơ Nene cũng đang được phát triển. Một đơn đặt hàng cho 3 mẫu thử đã được ký vào ngày 30/8/1944, đơn đặt hàng thứ hai và thứ ba là cho hải quân. Một đơn đặt hàng cho thêm 24 chiếc tiền sản xuất, trong đó 6 chiếc cho RAF và 18 chiếc còn lại cho Không quân Hải quân đã được ký vào ngày 7/7/1945.
Việc xử lý các vấn đề với nguyên mẫu Spiteful đã làm trì hoãn tiến độ trên phiên bản lắp động cơ phản lực, dẫn tới đơn đặt hàng 24 chiếc tiền sản xuất bị ngừng lại, dù công việc trên 3 mẫu thử vẫn được tiếp tục. Không quân Hải quân đã quay ra mua 18 chiếc de Havilland Vampire Mk 20, nhằm đạt được kinh nghiệm vận hành máy bay timee kích. RAF từ chối cả hai mẫu thiết kế vì các thiết kế này không mang lại lợi thế vận hành có thể quan sát được so với loại Gloster Meteor và de Havilland Vampire, đây là hai loại tiêm kích phản lực đầu tiên của RAF. Supermarine đã đưa ra một phiên bản hải quân của dự án cho Bộ hải quân. Mẫu thử Type 392 có số thứ tự TS409 phiên bản mặt đất bay thử lần đầu ngày 27/7/1946 do phi công thử nghiệm Jeffrey Quill điều khiển.
Attacker có một số thiếu sót khiến nó nhanh chóng bị thay thế. Đầu tiên là máy bay vẫn giữ lại bánh đáp ở đuôi có từ Spiteful (do chừng mực của việc trang bị lại được yêu cầu làm thay đổi cánh của Spiteful), mà không phải là bánh đáp ở mũi, vì vậy những chiếc Attacker khó hạ cánh hơn trên tàu sân bay. Độ cao đuôi cũng bằng Spireful, điều này có nghĩa khi máy bay hoạt động ở các sân bay cỏ, ống xả phản lực tạo ra một đường rạch dài trên mặt đất mà "3 người cũng có thể nằm vừa".
Mẫu thử hải quân đầu tiên có tên mã Type 398 TS413 bay ngày 17/6/1947, do phi công thử nghiệm Mike Lithgow điều khiển, chuyến bay này diễn ra sau chuyến bay đầu tiên của Meteor 3 năm. Đơn đặt hàng cho FAA được ký vào tháng 11/1949. Sản phẩm đầu tiên là phiên bản F 1 vào năm 1950, đưa vào trang bị của FAA tháng 8/1951 thuộc Phi đội Hải quân 800. Vũ khí của F 1 gồm 4 khẩu pháo 20 mm (.79 in) Hispano Mk V, 125 viên đạn mỗi khẩu. Nó được trang bị một động cơ phản lực Rolls-Royce Nene Mk 101.
Lịch sử hoạt động
nhỏ|phải|Attacker FB.2 thuộc Phi đội 1831 RNVR chuẩn bị hạ cánh tại [[RNAS Stretton năm 1956]]
Attacker chỉ có một sự nghiệp ngắn ngủi trong biên chế của Không quân Hải quân Hoàng gia, không tham gia bất cứ hoạt động tác chiến nào của FAA, nó được rút hỏi biên chế các đơn vị ở tuyến đầu vào năm 1954. Nó vẫn còn hoạt động trong biên chế của Lực lượng Dự bị Hải quân Hoàng gia (RNVR) một thời gian ngắn cho đến khi ngừng hoạt động vào đầu năm 1957. Attacker thuộc các phi đội ở tiền tuyến bị thay thế bằng loại Hawker Sea Hawk và de Havilland Sea Venom hiện đại hơn. Trong giai đoạn 1952 và 1953, 36 chiếc Attacker đã phục vụ trong biên chế của Không quân Pakistan (PAF) trước khi nghỉ hưu vào thập niên 1960.
Biến thể
Có thêm 2 biến thể của Supermarine Attacker đã được chế tạo cho FAA. Đó là FB 1, một biến thể tiêm kích-bom, chỉ có một số khác biệt so với F 1. Biến thể cuối cùng của Attacker là FB 2, trang bị động cơ Rolls-Royce Nene mới và được sửa đổi cấu trúc. Supermarine Attacker sau khi sửa đổi có 8 giá treo dưới cánh, có thể mang 2 quả bom 1,000 lb (454 kg) hoặc 8 đạn phản lực không điều khiển.
;Type 392 :Nguyên mẫu phiên bản mặt đất theo đặc tả kỹ thuật E.10/44, có 3 mẫu thử được đặt sản xuất đến 30/8/1944, 1 chiếc được chế tạo và bay ngày 27/7/1946. ; Binh chủng Không quân Hải quân Hoàng gia Anh, 146 chiếc. 736 NAS (Phi đội huấn luyện) 800 NAS 803 NAS 890 NAS Lực lượng Dự bị Hải quân Hoàng gia **Phi đội 1831 RNVR
Sự cố và tai nạn
nhỏ|phải|Attacker hạ cánh trên boong tàu HMS Illustrious năm 1948
- Ngày 23/5/1950, phi công thử nghiệm của hãng Vickers là Les Colquhoun, khi đang lái một chiếc Attacker F1 WA469 nhằm thử nghiệm hiệu quả của phanh khí. Khi đang bổ nhào, phần ngoài của cánh phải bị uốn lên và cánh nhỏ bị khóa. Colquhoun quyết định không nhảy khỏi máy bay và điều khiển máy bay hạ cánh tại Chilbolton, ở 90 m đường băng cuối cùng một lốp của máy bay bị nổ.
Tính năng kỹ chiến thuật (F 1)
Dữ liệu lấy từ ''The Illustrated Encyclopedia of Aircraft’’ Tập tin:Supermarine Attacker.svg
Đặc điểm riêng
*Tổ lái*: 1 Sức chứa: Chiều dài: 37 ft 6 in (11,43 m) Sải cánh: 36 ft 11 in (11,25 m) Chiều cao: 9 ft 11 in (3,02 m) Diện tích cánh: 226 sq ft (21,0 m²) Trọng lượng rỗng: 8.434 lb (3.826 kg) Trọng lượng cất cánh: 12.211 lb (5.539 kg) Trọng lượng cất cánh tối đa: Động cơ**: 1 động cơ phản lực Rolls-Royce Nene, 5.000 lbf (22 kN)
Hiệu suất bay
*Vận tốc cực đại*: 590 mph (950 km/h; 510 kn) Vận tốc hành trình: Tầm bay: 590 mi (513 nmi; 950 km) Trần bay: 45.000 ft (13.716 m) Vận tốc lên cao: 6.350 ft/min (32,3 m/s) Lực nâng của cánh**: *Lực đẩy/trọng lượng:
Vũ khí
*Pháo: 4 × pháo Hispano No. 3 Mark 5 20mm