✨Yamamoto Isoroku

Yamamoto Isoroku

nhỏ|228x228px|Yamamoto (hàng trước, ngồi, thứ 2 bên trái) cùng gia đình, bên trái là Teikichi Hori nhỏ|225x225px|Yamamoto lúc trẻ và Curtis D. Wilbur, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ Yamamoto Isoroku (kanji: 山本五十六, Hán Việt: Sơn Bản Ngũ Thập Lục; 4 tháng 4 năm 1884 - 18 tháng 4 năm 1943) là một đô đốc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Người ta nhớ nhiều tới ông vì thành tích tấn công hạm đội Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng. Ông được sách Thập Đại Tùng Thư - 10 Đại tướng Soái Thế giới coi là một trong 10 viên tướng xuất sắc nhất trong lịch sử quân sự thế giới. Ông cũng cùng với Đô đốc Togo Heihachiro, người đập tan hạm đội Nga ở trận Hải chiến Tsushima năm 1905 được hưởng vinh dự làm lễ quốc tang sau khi bị ám sát qua đời.

Tiểu sử

Thân thế

Tên thật của ông là Takano Isoroku (高野五十六, Cao Dã Ngũ Thập Lục), quê ở Nagaoka, Niigata; ông là con trai thứ sáu của Takano Sadayoshi (高野 貞吉, Cao Dã Trinh Cát) - một samurai cấp thấp đồng thời giữ chức giáo học cho phiên chủ (daimyō) phiên Nagaoka (Trường Cương). Lúc đầu, chỉ được hưởng bổng lộc 30 thạch, về sau lớp cha ông có người tinh thông nho học, cổ học, binh học nên được phiên chủ trọng thị và cho giữ chức Gia Lão, cai quản các sự vụ trong gia đình võ sĩ và hưởng bổng lộc 160 thạch. Do Takano Sadayoshi sinh ông lúc 56 tuổi nên ông được gọi là Isoroku (Ngũ Thập Lục). Ông tham gia hải quân từ năm 1901 cho tới khi ông qua đời năm 1943.

Lớn lên, ông theo học tại trường Trung học Nagaoka và tỏ ra có năng khiếu về các môn thể thao và quân sự. Ông cũng theo học Anh văn với 1 phái bộ truyền giáo Hoa Kỳ và ngoài ra, cha ông cũng đã dạy cho ông Hán văn và làm thơ.

Isoroku ngay từ nhỏ đã được gia đình giáo dục rất nghiêm khắc, thấm nhuần tinh thần võ sĩ đạo truyền thống của Nhật Bản. Hơn nữa, gia đình Cao Dã dù là võ sĩ nhưng cũng không giàu có gì, chính cuộc sống thanh bạch đó đã trui rèn Isoroku thành một con người cứng rắn, có chí tiến thủ. Và khi ông tham gia các khóa huấn luyện quân sự ngay từ cấp tiểu học, thì "nọc độc của chủ nghĩa quân quốc Nhật Bản đã ngấm vào tận xương tủy của Yamamoto". Trận này ông bị trọng thương, bàn tay trái cụt mất 2 ngón (ngón trỏ và ngón giữa) và đôi chân bị hơn một trăm vết thương, do đó ông được tặng kỉ niệm chương vinh dự của quân nhân. Mẹ ông trước sự kiện này hết sức xúc động, đã viết hai câu thơ: "Vì nước vì vua toàn tâm quyết, tỏa hương bát ngát võ sĩ hoa.".

Hiryu, lúc bấy giờ là hàng không mẫu hạm còn sống sót duy nhất của Nhật, không để lãng phí thời gian trong việc phản công. Máy bay của nó đã tấn công và gây thiệt hại nặng cho _Yorktown. S_au cùng Yorktown bị chìm vì trúng ngư lôi từ tàu ngầm Nhật. Chiều cùng ngày, Hiryu bị một loạt máy bay ném bom bổ nhào tấn công, đánh trúng 4 trái bom và bốc cháy. Hiryu sau cùng bị đánh chìm bởi ngư lôi từ tàu khu trục Nhật, mang theoChuẩn đô đốc Yamaguchi Tamon và thuyền trưởng Tomeo Kaku khi cả hai quyết định hi sinh cùng con tàu.

Yamamoto lúc đầu quyết định tiếp tục nỗ lực và đưa các lực lượng nổi còn lại của mình tìm kiếm các mẫu hạm của Hoa Kỳ về hướng đông. Ngay lập tức, một lực lượng tuần dương hạm tấn công được đưa đến pháo kích vào đảo đêm đó. Dần dần khi đêm xuống nhưng không thấy bóng dáng người Mỹ đâu, Yamamoto ra lệnh cho các lượng của ông rút quân.

Việc Nhật Bản mất 4 hàng không mẫu hạm (Kaga, Akagi, Soryu, và Hiryu) cùng một số lớn các tổ lái được huấn luyện kỹ lưỡng đã chặn đứng đà bành trướng của họ trên vùng Thái Bình Dương. Hải quân Nhật đã mất 40% lực lượng tàu sân bay, họ chỉ còn 2 hàng không mẫu hạm cỡ lớn là ZuikakuShokaku có thể huy động cho các hoạt động tấn công, cùng 2 hàng không mẫu hạm lớn khác đang chạy thử máy. Các mẫu hạm còn lại là Ryūjō, JunyoHiyo đều là mẫu hạm nhẹ với đường băng nhỏ, chúng không có khả năng tác chiến mạnh như các hàng không mẫu hạm cỡ lớn. Thất bại nặng nề của người Nhật xảy ra sau nửa năm khai chiến với Hoa Kỳ. Khoảng thời gian này là gần như chính xác với dự đoán của Đô đốc Yamamoto Isoroku về quãng thời gian nước Nhật có ưu thế trước khi người Mỹ giành quyền chủ động.

Sau trận Midway

nhỏ|Yamamoto tại sân bay Henderson, Guadalcanal, 1942 Yamamoto vẫn giữ chức vụ tổng tư lệnh, được giữ lại ít nhất một phần để tránh làm suy giảm tinh thần của Hạm đội Liên hợp. Tuy nhiên, do thất bại ở Midway, và Bộ Tổng tham mưu Hải quân không muốn tham gia vào các canh bạc tiếp theo. Điều này khiến Yamamoto phải theo đuổi "chiến lược quyết chiến" phòng thủ cổ điển mà ông đã cố gắng tránh. nhỏ|Isoroku Yamamoto và Matome Ugaki tại Rabaul năm 1943 Yamamoto giao cho các đơn vị Hạm đội Liên hợp thực hiện một loạt các hành động tiêu hao nhỏ trên khắp nam và trung tâm Thái Bình Dương, nhưng đổi lại phải chịu những tổn thất khủng khiếp. Những nỗ lực lớn nhằm đánh bại lực lượng Mỹ đang di chuyển trên Guadalcanal đã dẫn đến một cặp trận chiến tàu sân bay mà đích thân Yamamoto chỉ huy: Trận chiến quần đảo Đông Solomons và Quần đảo Santa Cruz vào tháng 9 và tháng 10. Mọi nỗ lực đã thất bại khi Lục quân không thể tiếp tục cuộc hành quân. Lực lượng hải quân của Yamamoto đã giành được một số chiến thắng và gây ra tổn thất và thiệt hại đáng kể cho hạm đội Mỹ trong một số trận chiến xung quanh Guadalcanal, bao gồm Trận chiến đảo Savo, Mũi Esperance và Tassafaronga, nhưng ông không bao giờ có thể lôi kéo Hoa Kỳ vào một hành động quyết định của hạm đội.

Sau cùng, Yamamoto quyết định rút quân khỏi Guadacanal sau khi chứng kiến những thất bại rõ ràng của người Nhật

Cái chết của Yamamoto Isoroku

Isoroku Yamamoto (1943) Sau những thất bại lớn về chiến lược ở Midway và Guadalcanal, Yamamoto thấy rõ kết cục chiến tranh sẽ bi thảm cho Nhật, điều mà ông từng tiên đoán cách đó gần 2 năm. Ông không còn muốn về Tokyo nữa. Nhưng ông vẫn cố gắng cầm cự còn nước còn tát với quân Mỹ. Ngày 3 tháng 4 năm 1943 ông quyết định rời chiếc soái hạm Musashi lên đường đến căn cứ địa Rabaul để thị sát và cổ vũ sĩ khí binh sĩ. Có lẽ, nhận biết thấy mình đang sống những ngày cuối cùng của cuộc đời, đêm trước đó Yamamoto đã viết một bức thư cuối cùng cho vợ ông, trong thư có kèm một bản "Hòa Ca" và một nắm tóc của mình. nhỏ|Đô đốc Yamamoto, vài giờ trước khi qua đời tại căn cứ Nhật ở Rabaul, ngày 18 tháng 4 năm 1943 Sau khi đến Rabaul, Yamamoto đã bắt tay thực hiện một "kế hoạch Y" với mục tiêu là quân Mỹ ở Guadalcanal. Ngày 7 tháng 4 Yamamoto huy động tất cả các phi cơ của hạm đội tiến hành 4 đợt không tập dữ dội vào các vị trí quân Mỹ tại Guadalcanal. Các cuộc tấn công thu được một số hiệu quả, nhưng quân Mỹ vẫn không lùi nửa bước. Yamamoto bỗng đề xuất sẽ đi thị sát tại 3 hòn đảo gần Guadalcanal để nâng cao sĩ khí, và ngày 13 đã xác định xong lịch trình và đánh điện báo tới những nơi ông tới, đúng 6 giờ ngày hôm sau sẽ khởi hành. Tuy nhiên, việc đi thị sát như thế này cực kì nguy hiểm và nhiều người đã ngăn cản quyết liệt, hoặc là đề nghị mang theo một số lượng cực lớn phi cơ hộ tống. Tất cả đều không ngăn được quyết tâm của vị thống soái.

Có một điều kịch tính là, giống như ở Midway và Guadalcanal, người Mỹ đã giải được bản mật mã về việc Yamamoto đi thị sát và đã tổ chức đón lõng ông. Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 18 tháng 4 năm 1943, khi chiếc máy bay Mitsubishi G4M chở Yamamoto đang trên vùng trời đảo Bounganiville thì một tốp 18 chiếc máy bay Lockheed P-38 Lightning xuất hiện dưới tay phải phi cơ Nhật. 6 chiếc phi cơ Zero hộ tống Yamamoto liền lao tới chặn lại. Tuy nhiên đây là một cuộc chiến đấu không cân sức. Mấy phút sau một cột khói đen bốc lên từ một khu rừng rậm phía dưới. Phi cơ của Yamamoto Isoroku đã bị bắn hạ. Ông tử trận vào ngày 18 tháng 4 năm 1943.

An táng

nhỏ|Thủ tướng Hideki Tojo dự lễ tang của Yamamoto, sau khi tro cốt của ông được trả về Nhật Bản, vào tháng 5 năm 1943 nhỏ|Lễ tang cấp nhà nước của Yamamoto, ngày 5 tháng 6 năm 1943 Thi thể của Yamamoto, cùng với địa điểm máy bay rơi, được tìm thấy vào ngày hôm sau trong khu rừng nhiệt đới trên đảo Bougainville bởi một nhóm tìm kiếm và cứu nạn Nhật Bản, do kỹ sư quân đội Trung úy Tsuyoshi Hamasuna chỉ huy. Theo Hamasuna, Yamamoto đã bị văng ra khỏi đống đổ nát của chiếc máy bay, bàn tay vẫn đeo găng trắng và nắm lấy chuôi thanh katana, ông vẫn ngồi thẳng trên ghế dưới tán cây. Hamasuna cho biết Yamamoto có thể được nhận ra ngay lập tức, khi ấy đầu ông cúi xuống như thể đang suy nghĩ sâu sắc. Khám nghiệm tử thi tiết lộ rằng Yamamoto đã trúng hai vết đạn 50 li, một vết ở phía sau vai trái và một vết khác ở bên trái hàm dưới của anh ta. Bác sĩ hải quân Nhật Bản kiểm tra thi thể xác định rằng vết thương ở đầu đã giết chết Yamamoto. Các chi tiết khủng khiếp hơn về cái chết của Yamamoto đã được giấu kín với công chúng Nhật Bản. Theo người viết tiểu sử Hiroyuki Agawa, báo cáo y tế đã được thay đổi "theo lệnh từ cấp trên". nhỏ|Thi hài Yamamoto được soái hạm Musashi đưa về Nhật Bản sau khi được hỏa táng Toàn bộ thi thể sau đó được đoàn tìm kiếm chở về Buin, và được làm lễ hỏa thiêu trên đỉnh của một ngọn núi gần đó. Tro cốt của Yamamoto được đặt vào một hộp gỗ thông, và được đưa về Truk để làm nghi lễ long trọng trước khi được đưa về Tokyo trên thiết giáp hạm Musashi - soái hạm của Yamamoto. Hơn một tháng sau khi tro cốt của Yamamoto được đưa về Tokyo, ngày 21 tháng 5 năm 1943, chính phủ Nhật Bản mới chính thức công bố về cái chết của Yamamoto và gây sốc tới toàn bộ công chúng Nhật Bản. Đài phát thanh Tokyo đã thông báo rằng: "Ðô đốc Yamamoto trong khi chỉ huy tại tiền tuyến vào tháng Tư năm nay, đã giao chiến với địch quân và oanh liệt đền nợ cho tổ quốc bằng một cái chết anh hùng." Yamamoto được truy phong hàm Nguyên soái Đại tướng Hải quân và được truy tặng Đại thụ Cúc Huân chương vào ngày 22 tháng 5 năm 1943. nhỏ|Mộ của Yamamoto Tro cốt của Yamamoto được tách ra làm hai phần để được tổ chức hai đại tang lễ cấp quốc gia. Tang lễ đầu tiên được tổ chức ở Công viên Hibiya ở trung tâm Tokyo, với sự góp mặt của nhiều nhân vật quan trọng trong chính phủ và ngoài chính phủ Nhật Bản. Phần tro này được chôn cất bên cạnh ngôi mộ của Đô đốc Tōgō Heihachirō ở Nghĩa trang Tamabuchi. Tang lễ thứ hai cho Yamamoto được cử hành một cách trang trọng tại Nagaoka, quê hương của Yamamoto. Tang lễ này cử hành sau lễ quốc tang tại Tokyo một ngày. Bộ quân phục và thanh kiếm của Yamamoto được đặt trên một cây cột cùng với cái bình đựng một phần cốt tro của ông. Ông được chôn bên cạnh mộ phần của thân phụ trong khuôn viên một ngôi đền Phật giáo, bên ngoài một thị trấn nhỏ mà trước kia thân phụ ông là một giáo viên. Ngôi mộ của Yamamoto là một bia mộ rất đơn giản và ngắn hơn bia mộ của thân phụ ông hai phân, theo lời căn dặn lúc sinh thời của ông.

Tháng 12 năm 1943, một bức tượng to bằng người thật của Yamamoto đã dựng lên tại Trường Không lực Kasumigaura, nơi Yamamoto đã từng làm hiệu trưởng để tưởng nhớ ông. Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945, Đại tướng Doughlas MacArthur đã ra lệnh phá hủy tất cả các tượng tướng lĩnh, người anh hùng Nhật ở khắp Nhật Bản. Các sĩ quan hải quân liền cưa tượng của Yamamoto làm hai khúc và thả xuống một cái hồ gần đó, và cẩn thận đánh dấu chỗ giấu tượng. Năm 1955, tượng của ông được một công ty xử lý chất thải phát hiện, và đã được một số bạn thân của Yamamoto mua lại để đem đặt vào trong một đền thờ Phật giáo ở Nagaoka. Bên cạnh tượng của ông là mẫu hình ngôi nhà nhỏ bằng gỗ, nơi ông chào đời. Căn nhà nguyên thủy của gia đình ông đã bị máy bay ném bom B-29 của Hoa Kỳ ném bom thiêu hủy vào năm 1945.

Cuộc sống cá nhân

nhỏ|196x196px|Yamamoto (trái) cùng người bạn lâu năm Teikichi Hori khi còn là sĩ quan trẻ của Hải quân Nhật Bản, 1915-1919 Yamamoto luyện tập thư pháp. Ông và vợ, Reiko, có bốn người con: hai trai và hai gái. Yamamoto là một người đam mê cờ bạc, thích cờ vây, shogi, billard, bài, mạt chược, bài xì phé và các trò chơi khác thử thách trí thông minh và rèn luyện trí óc của anh ấy. Ông thường nói đùa về việc chuyển đến Monaco và bắt đầu sòng bạc của riêng mình.

Ông thích bầu bạn với geisha, và vợ ông Reiko đã tiết lộ với công chúng Nhật Bản vào năm 1954 rằng Yamamoto gần gũi với geisha yêu thích của ông Kawai Chiyoko hơn là với cô ấy, điều này đã gây ra một số tranh cãi. Đám tang của ông đi ngang qua khu nhà của Kawai trên đường đến nghĩa trang. Yamamoto là bạn thân của Teikichi Hori, một đô đốc Hải quân và là bạn học của Yamamoto từ Học viện Hải quân Đế quốc Nhật Bản, người đã bị thanh trừng khỏi Hải quân vì ủng hộ Hiệp ước Hải quân Washington. Trước và trong chiến tranh, Yamamoto thường xuyên trao đổi thư từ với Hori, những bức thư cá nhân này trở thành chủ đề của bộ phim tài liệu The Truth of Yamamoto của đài NHK.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|228x228px|Yamamoto (hàng trước, ngồi, thứ 2 bên trái) cùng gia đình, bên trái là Teikichi Hori nhỏ|225x225px|Yamamoto lúc trẻ và Curtis D. Wilbur, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ **Yamamoto Isoroku** (kanji: 山本五十六, Hán Việt:
**Chiến dịch Vengeance** (tiếng Việt: **Chiến dịch Báo thù**) là một chiến dịch quân sự của Quân đội Hoa Kỳ ở Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
**Đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản** là các quân hàm cấp tướng trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản từ năm 1872 đến năm 1945. Trên thực tế, các cấp bậc đô đốc
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
**Trận hải chiến ở quần đảo Santa Cruz** vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, người Nhật Bản thường gọi là **Minami Taiheiyou Kaisen** (南太平洋海戦, みなみたいへいようかいせん) là trận hải chiến thứ tư giữa các tàu
**_Nagato_** (tiếng Nhật: 長門, **_Trường Môn_**), được đặt theo tên tỉnh Nagato, là một thiết giáp hạm siêu-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. _Nagato_ là chiếc thiết giáp hạm đầu
là một hạm đội của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đây là hạm đội không thường trực, được thành lập trên cơ sở ít nhất 2 hạm đội thường trực. Hải quân Nhật gọi
**Trận Midway** là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai
**Trận hải chiến Guadalcanal** hay theo như cách gọi của Nhật Bản là **Dai Sanji Solomon Kaisen** (第三次ソロモン海戦, だいさんじソロモンかいせん; _Hải chiến Solomon lần thứ ba_), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11
**_Kaga_** **(tiếng Nhật: 加賀**, _Gia Hạ_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân
nhỏ|phải|Thủ tướng Hideki Tojo **Tōjō Hideki** (kanji kiểu cũ: 東條 英機; kanji mới: 東条 英機; Hán Việt: _Đông Điều Anh Cơ_) (30 tháng 12 năm 1884 – 23 tháng 12 năm 1948) là một đại
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**_Trận chiến Midway_** (tựa gốc tiếng Anh: **Midway**) là một bộ phim điện ảnh lịch sử Hoa Kỳ được sản xuất và phát hành năm 2019, do Roland Emmerich làm đạo diễn, Harald Kloser làm
**Nagumo Chūichi** (, 25 tháng 3 năm 1887 - 6 tháng 7 năm 1944) là đại tướng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tướng tiên phong hàng đầu
là một nam diễn viên người Nhật Bản xuất hiện trong hơn 150 phim điện ảnh. Ông nổi tiếng nhất nhờ 16 bộ phim hợp tác (1948–1965) với Kurosawa Akira trong những tác phẩm như
là huân chương cao quý nhất của Nhật Bản. Đại thụ chương (_Grand Cordon_) được thành lập vào năm 1876 bởi Thiên hoàng Minh Trị; Vòng cổ (_cảnh sắc_) được thêm vào ngày 4 tháng
**Trận chiến biển Coral** hay **Trận chiến biển San Hô** là trận hải chiến diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai từ ngày 4 tháng 5 đến ngày 8 tháng 5 năm 1942
**_Shikinami_** (tiếng Nhật: 敷波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**Tàu ngầm lớp Sen Toku I-400** (tiếng Nhật: 伊四〇〇型潜水艦) được đóng bởi hải quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ II. Nó được biết đến như loại tàu ngầm lớn nhất
**_Musashi_** (tiếng Nhật: 武蔵, _Vũ Tàng_), tên được đặt theo tên một tỉnh cũ của Nhật Bản, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II, và là
Trung tá Không quân Jimmy Doolittle (thứ hai từ bên trái) và đội bay của ông chụp ảnh trước một chiếc B-25 trên sàn đáp tàu sân bay USS _Hornet_ Cuộc **Không kích Doolittle** vào
**_Murakumo_** (tiếng Nhật: 叢雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**Lockheed Corporation** là một công ty hàng không vũ trụ của Hoa Kỳ. Lockheed được thành lập vào năm 1926 và sau này sáp nhập với Martin Marietta trở thành Lockheed Martin vào năm 1995.
trái|nhỏ|Phần mộ Nguyên soái Terauchi Hisaichi tại Singapore **Bá tước Terauchi Hisaichi** (寺内 寿一 Tự Nội Thọ Nhất, 8 tháng 8 năm 1879 - 12 tháng 6 năm 1946) là nguyên soái đại tướng Lục
**_Haruna_** (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến
Mutsu (thiết giáp hạm nhật) **_Mutsu_** (tiếng Nhật: 陸奥), được đặt tên theo tỉnh Mutsu, là chiếc thiết giáp hạm thứ hai thuộc lớp _Nagato_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được đưa vào
Chiếc **Mitsubishi G4M** (tiếng Nhật: 一式陸上攻撃機: **_Máy bay Tấn công từ Mặt đất Kiểu 1_**, tên mã của Đồng Minh là **_Betty_**) là một máy bay ném bom 2-động cơ đặt căn cứ trên đất
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**_Ayanami_** (tiếng Nhật: 綾波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
(1891-1945) là một Phó đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông nổi tiếng vì được xem là cha đẻ của chiến thuật Kamikaze. ## Tiểu sử
**_Mikuma_** (tiếng Nhật: 三隈) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được đặt
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**USS _Portland_ (CL/CA–33)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc . Nó là chiếc tàu chiến đầu
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
**Không kích Ấn Độ Dương** là cuộc tấn công bằng không lực hải quân của Hải quân Đế quốc Nhật Bản nhằm vào tàu thuyền và căn cứ của Đồng Minh ở Ấn Độ Dương
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**_Hatsuyuki_** (tiếng Nhật: 初雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
[[Hirohito|Thiên hoàng Shōwa và ngựa trắng (_Shirayuki_)]] **_Shirayuki_** (tiếng Nhật: 白雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được
nhỏ|phải|Thiếu tá Fuchida chuẩn bị cho trận Trân Châu cảng là một phi công của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai với quân hàm Đại tá.
**_Isonami_** (tiếng Nhật: 磯波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
nhỏ|phải|Một tấm ảnh khác về tàu khu trục _Uranami_ **_Uranami_** (tiếng Nhật: 浦波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn
**Cuộc tấn công Matanikau**, diễn ra từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 11 năm 1942, đôi khi còn gọi là **Trận Matanikau lần thứ tư**, là trận đánh giữa Thủy quân lục chiến Hoa
là thành viên của hoàng tộc Nhật Bản và là nguyên soái trong Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong 2 thời kỳ Minh Trị và Đại Chính. Ông chính là cha của Hương Thuần
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong