✨Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ

Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ

Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ ( (БНМАУ), Tập tin:Mongolian People's Republic.svg, Bügd Nairamdakh Mongol Ard Uls (BNMAU)) là một nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại ở vùng Đông Á từ năm 1924 đến 1992. Nhà nước này do Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ cầm quyền và trong suốt lịch sử của nhà nước này, nó luôn duy trì mối quan hệ mật thiết với Liên Xô.

Lịch sử

Thành lập

Từ năm 1691 đến 1911, Ngoại Mông là vùng đất thuộc quyền cai trị của nhà Thanh. Vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, triều đình nhà Thanh bắt đầu thực hiện các chính sách mới nhằm hòa hợp hơn nữa với Ngoại Mông. Bức xúc trước viễn cảnh thuộc địa ở Nội Mông vào thế kỷ 19, giới quý tộc Mông Cổ đã quay sang Đế quốc Nga nhờ trợ giúp. Vào tháng 8 năm 1911, một đoàn đại biểu Mông Cổ đã đến Sankt-Peterburg và thu được một cam kết hỗ trợ có giới hạn. Khi họ trở về, Cách mạng Tân Hợi đã bắt đầu, và đến tháng 12 năm 1911, người Mông Cổ hạ bệ amban (trú tráp đại thần) của nhà Thanh tại Ikh Khuree (Khố Luân) và tuyên bố độc lập dưới sự lãnh đạo của Jebtsundamba Khutuktu thứ 8, người được bổ nhiệm làm Bogd Khan của Mông Cổ từ thời nhà Thanh. Các nỗ lực nhằm đưa Nội Mông vào tầm kiểm soát của nhà nước mới đã thất bại vì nhiều lý do khác nhau, bao gồm cả sự yếu kém quân sự của người Mông Cổ ở Nội Mông để tự giành lấy độc lập, thiếu sự trợ giúp của Nga (do tại Nội Mông, Nga vướng vào các hiệp ước bí mật với Nhật Bản), và thiếu sự hỗ trợ của một bộ phận quý tộc Nội Mông và các tăng lữ cấp cao. Trong thỏa thuận Khiagt vào năm 1915, Trung Quốc, Nga và Mông Cổ đã nhất trí về tình trạng của Mông Cổ là tự trị dưới quyền thống trị của Trung Quốc.

Tuy nhiên, Trung Hoa Dân Quốc đã lợi dụng Cách mạng Tháng Mười và cuộc nội chiến sau đó để triển khai quân đội tại Ngoại Mông, và năm 1919 chính quyền Mông Cổ đã bị buộc phải ký một hiệp ước theo đó bãi bỏ quyền tự trị của Mông Cổ. Dưới sự chiếm đóng của Trung Quốc, Đảng Nhân dân Mông Cổ được thành lập và một lần nữa lại hướng về phía bắc, tức nước Nga Xô-viết để tìm kiếm sự giúp đỡ. Trong thời gian đó, quân Bạch vệ Nga do Roman von Ungern-Sternberg lãnh đạo đã chiếm Khuree và đầu tháng 3 năm 1921, và chính phủ thần quyền mới đã tuyên bố độc lập từ Trung Quốc vào ngày 13 tháng 3. Song Cách mạng Ngoại Mông vào năm 1921 đã nổ ra và Ungern và quân Trung Quốc còn lại bị đẩy lui sau vài tháng. Đến ngày 6 tháng 7 năm 1921, Đảng Nhân dân Mông Cổ và quân Liên Xô đã chiếm được Niislel Khuree. Đảng Nhân dân thành lập một chính phủ mới, song vẫn cho Bogd Khaan làm người đứng đầu trên danh nghĩa. Trong những năm tiếp theo, mặc dù có một số cuộc đấu tranh quyền lực song ảnh hưởng của Liên Xô luôn vững mạnh. Sau khi Bogd Khaan mất, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ đã được tuyên bố thành lập vào ngày 26 tháng 11 năm 1924.

Củng cố quyền lực (1925–1938)

Từ năm 1925 đến 1928, chế độ mới được hình thành. Vào thời điểm này, Mông Cổ là nơi lạc hậu nhất tại châu Á, đi sau phần còn lại của thế giới tới khoảng 200 năm. Công nghiệp không tồn tại và sự thịnh vượng do giới quý tộc và tăng lữ kiểm soát. Dân số ít hơn một triệu người và suy giảm do gần một nửa số đàn ông sống trong các tu viện Phật giáo. Năm 1928, Stalin ra lệnh tập thể hóa ngành nông nghiệp của Mông Cổ. Chính sách này dẫn đến các vấn đề trong nền kinh tế và giao thông vận tải, và nghiêm trọng hơn là đã xảy ra các cuộc nổi dậy ở phía tây và nam và chỉ có thể được dập tắt với sự trợ giúp của Hồng quân Liên Xô. Năm 1934, Pejidiin Genden viếng thăm Moskva và giận dữ kết tội Stalin. Sau năm 1932, người ta đã thu nhỏ quy mô thi hành nền kinh tế tập trung. Năm 1936, Stalin yêu cầu loại bỏ các tu viện Phật giáo (vốn là địa chủ chính tại Mông Cổ khi đó) để giải phóng nông nô. Trong khi đó, cuộc xâm lược của người Nhật ở Mãn Châu là một biến cố khơi mào cho việc Liên Xô đưa các đội quân đến Mông Cổ. Đồng thời cuộc Đại thanh lọc chính trị đã ập đến Mông Cổ. Trong số những người bị xử bắn có những nhân vật nổi bật như Peljidiin Genden, Anandyn Amar, Demid, và Losol. Sau khi loại bỏ Genden khỏi quyền lực, Khorloogiin Choibalsan, một người tin theo Joseph Stalin, đã lên nắm quyền. Các cuộc thanh lọc đã loại bỏ gần như hoàn toàn các tu viện Phật giáo Tây Tạng tại Mông Cổ, hàng trăm nghìn nông nô được giải phóng, trong khi khoảng 30.000-35.000 người đã chết hoặc bị bắt giam

Thế chiến II (1939–1945)

Trong Thế chiến II, do mối đe dọa đến từ Nhật Bản ngày càng tăng tại biên giới Mông Cổ-Mãn Châu Quốc, Liên Xô đã đảo ngược quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Mông Cổ với việc ủng hộ một chính sách kinh tế mới theo phương pháp tiệm tiến và xây dựng quốc phòng. Hồng quân Liên Xô và Mông Cổ đã đánh bại các lực lượng Nhật Bản xâm chiếm miền đông Mông Cổ vào mùa hè năm 1939 trong trận Khalkhin Gol, và thỏa thuận ngừng bắn đã được ký kết theo đó thiết lập nên một ủy ban để xác định biên giới Mông Cổ-Mãn Châu Quốc vào mùa thu năm đó.

Sau năm 1941, kinh tế Mông Cổ đã được điều chỉnh để có thể hỗ trợ Liên Xô mọi cách có thể, bao gồm cả việc cung cấp viện trợ cho một số đơn vị quân đội Xô viết. Vào mùa hè năm 1945, Liên Xô đã sử dụng Mông Cổ làm căn cứ cho chiến dịch Mãn Châu và đã đánh bại được quân Nhật tại đây. Các hoạt động xây dựng trước đó đã đưa 650.000 lính Xô viết đến Mông Cổ cùng với một số lượng lớn thiết bị. Quân đội Nhân dân Mông Cổ đóng vai trò hạn chế trong xung đột, nhưng nó đã giúp Stalin có phương tiện để buộc Trung Quốc phải công nhận nền độc lập của Mông Cổ.

Hiệp ước Trung-Xô 1945 và Sự độc lập của Mông Cổ

Vào tháng 2 năm 1945, hội nghị Yalta đã quy định sự tham gia của Liên Xô trong chiến tranh Thái Bình Dương. Một trong số các điều kiện Liên Xô đưa ra để tham gia là sau chiến tranh, Ngoại Mông sẽ được giữ "nguyên trạng." Ý nghĩa chính xác của "nguyên trạng" trở thành một điều gây tranh cãi trong cuộc hội đàm Trung-Xô tại Moskva vào mùa hè năm 1945 giữa Stalin và phái viên của Tưởng Giới Thạch là Tống Tử Văn.

Stalin khăng khăng nói Trung Hoa Dân Quốc công nhận độc lập của Ngoại Mông, một điều đang diễn ra trên thực tế. Tưởng Giới Thạch mặc dù chống lại ý tưởng này song cuối cùng đã phải chấp thuận. Tuy nhiên, Tưởng đã nhận được một lời hứa từ Stalin là sẽ không hỗ trợ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, một phần là để trao đổi việc công nhận Ngoại Mông.

Như vậy, Hiệp ước Trung-Xô đã đảm bảo độc lập của Ngoại Mông. Nhưng nó cũng đã kết thúc hy vọng của Khorloogiin Choibalsan về việc thống nhất Ngoại Mông với Nội Mông, vùng đất vẫn nằm trong tay Trung Quốc. Choibalsan ban đầu hy vọng rằng Stalin sẽ hỗ trợ viễn cảnh Đại Mông Cổ của ông song nhà lãnh đạo Liên Xô đã hy sinh điều này vì lợi ích của đất nước mình, được đảm bảo theo Hiệp ước Trung-Xô và được hợp pháp hóa theo các thỏa thuận Yalta. Dưới ý nghĩa này, Hiệp ước Trung-Xô đã đánh dấu việc phân chia vĩnh viễn Mông Cổ thành nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ độc lập và vùng Nội Mông láng giềng.

Chính trị Chiến tranh Lạnh (1945–1985)

Được bảo đảm đảo trong quan hệ với Liên Xô, chính phủ Mông Cổ chuyển sang phát triển hậu chiến, tập trung vào các hoạt động dân sự. Mông Cổ vào thời gian này là một trong số các nước cô lập nhất thế giới, hầu như không có liên lạc với bất kỳ quốc gia nào khác ngoài Liên Xô. Sau chiến tranh, các mối quan hệ quốc tế được mở rộng, Mông Cổ thiết lập quan hệ với Bắc Triều Tiên và các nước cộng sản mới ở Đông Âu. Mông Cổ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã công nhận lẫn nhau vào năm 1949, và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ bỏ tất cả chủ quyền tại Ngoại Mông. Tuy nhiên, cá nhân Mao Trạch Đông vẫn hy vọng tái hợp nhất Mông Cổ vào Trung Quốc. Ông nếu ra vấn đề này trước nhà lãnh đạo Liên Xô sớm nhất là năm 1949 (trong buổi gặp gỡ với Anastas Mikoyan), và sau đó, Stalin đã kiến quyết từ chối điều này. Năm 1956, theo sau tố cáo Stalin của Nikita Khrushchev, các lãnh đạo Trung Quốc đã cố gắng trình bày rằng sự độc lập của Mông Cổ là một trong những sai lầm của Stalin trong buổi gặp với Mikoyan. Phản ứng của Liên Xô là người Mông Cổ được tự do quyết định số phận của mình.

Năm 1952, Choibalsan mất tại Moskva, nơi ông trải qua điều trị ung thư. Người thay ông giữ chức Tổng bí thư Đảng là Yumjaagin Tsedenbal. Không như người tiền nhiệm, Tsedenbal hăng hái trong việc hợp nhất Mông Cổ thành một nước cộng hòa thành phần của Liên Xô. Ý tưởng này đã vấp phải sự phản đối dữ đội từ các thành viên khác trong Đảng và bị bãi bỏ.

Trong những năm 1950, quan hệ giữa Mông Cổ và Trung Quốc được cải thiện đáng kể. Trung Quốc cung cấp viện trợ kinh tế đang rất cần thiết, xây dựng toàn bộ ngành công nghiệp tại Ulaanbaatar, cũng như các khối nhà cho cán bộ. Hàng nghìn người Trung Quốc đã tham gia vào các dự án này cho đến khi Trung Quốc rút lui sau năm 1962 trong một nỗ lực để gây áp lực Mông Cổ phá vỡ mối quan hệ với Liên Xô vào thời điểm quan hệ Trung-Xô xấu đi.

Sau khi bắt đầu tranh chấp Trung-Xô, Mông Cổ trong một thời gian ngắn đã lưỡng lự, những ngay sau đó đã mạnh mẽ ủng hộ Liên Xô, trở thành một trong các nước XHCN đầu tiên tán thành lập trường của Liên Xô trong cuộc tranh cãi với Trung Quốc. Các căn cứ quân sự trên biên giới Trung-Mông bắt đầu được xây dựng từ năm 1963; vào tháng 12 năm 1965 Bộ chính trị Mông Cổ yêu cầu Liên Xô đến đóng quân tại các căn cứ ở Mông Cổ. Vào tháng 1 năm 1966, với chuyến thăm của Leonid Brezhnev đến Mông Cổ, hai nước đã ký kết hiệp ước tương trợ lẫn nhau, mở đường cho sự hiện diện quận sự của Liên Xô tại Mông Cổ. Vào tháng 2 năm 1967, sau những tuần quan hệ với Trung Quốc trở nên căng thẳng hơn, Moskva đã chính thức thông qua việc đóng quân ở Mông Cổ.

Với sự khuyến khích của Liên Xô, Mông Cổ gia tăng sự tham gia trong các hội nghị cộng sản và tổ chức quốc tế. Điều này được thực hiện với một số khó khăn nhất định do Mông Cổ được cộng đồng quốc tế nhìn nhận rộng rãi là một phần phụ thuộc Liên Xô hơn là một quốc gia độc lập. Năm 1955, Mông Cổ cố gắng gia nhập Liên Hợp Quốc, nhưng yêu cầu bị Trung Hoa Dân Quốc phủ quyết. Nhà nước này sau chiến tranh Thế giới thứ hai đã tái tuyên bố chủ quyền với Mông Cổ. Mông Cổ trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc vào năm 1961 sau khi Liên Xô đe dọa phủ quyết việc gia nhập của tất cả các quốc gia mới độc lập tại châu Phi nếu Trung Hoa Dân Quốc vẫn dùng quyền phủ quyết. Quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ không được thiết lập cho đến cuối Chiến tranh Lạnh. Mông Cổ trở thành nơi ganh đua giữa Trung Quốc và Liên Xô trong những năm 1960, 1970 và 1980 vì sự hiện diện vũ khí hạt nhân của Liên Xô.

Bắt đầu những năm 1980, Tsedenbal trở nên ngày càng độc đoán và thất thường. Sau một loạt các thanh trừng trong đảng, ông bị trục xuất khỏi văn phòng vào tháng 8 năm 1984 với lý do tuổi già và không đủ khả năng trí tuệ. Việc loại bỏ Tsedenbal có được sự ủng hộ từ Liên Xô, và ông nghỉ hưu tại Moskva cho đến khi chết vì bệnh ung thư vào năm 1991. Jambyn Batmönkh trở thành Tổng bí thư và nhiệt thành lao vào những cải cách tương tự như Gorbachev đã thực hiện ở Liên Xô.

Sụp đổ (1985–1996)

Sau khi Mikhail Gorbachev lên nắm quyền ở Liên Xô, ông đã thực thi các chính sách perestroikaglasnost. Bầu không khí cải cách ở Liên Xô đã lan đến Mông Cổ. Sau các cuộc biểu tình quần chúng vào mùa đông 1990, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ bắt đầu nới lỏng kiểm soát hệ thống chính trị. Bộ Chính trị từ chức vào tháng 3, và đến tháng 5 thì hiến pháp đã được sửa đổi, xóa bỏ các chi tiết ghi rằng vai trò của Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ là lực lượng lãnh đạo tại đất nước, hợp thức hóa các đảng đối lập, tạo ra một cơ quan lập pháp thường trực, và thiết lập văn phòng chủ tịch nước. Vào ngày 29 tháng 7 năm 1990, cuộc bầu cử đa đảng tự do đầu tiên được tổ chức tại Mông Cổ. Kết quả bầu cử phần lớn nghiên về Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ, với 85% số phiếu. Cho đến tận năm 1996 Đảng này mới bị đẩy ra khỏi vị trí lãnh đạo.

Liên Xô rút quân đội đồn trú tại Mông Cổ cùng các hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính từ năm 1987 đến 1992. Sau đó, các chính sách ngoại giao và quốc phòng của Mông Cổ có thay đổi sâu sắc: "Duy trì quan hệ thân thiện với Nga và Trung Quốc phải là một ưu tiên trong hoạt động đối ngoại của Mông Cổ. Sẽ không chấp thuận rơi vào tay quốc gia nào song sẽ duy trì nguyên tắc một mối quan hệ cân bằng với cả hai và thúc đẩy tất cả các hoạt động hợp tác láng giềng thân thiết."

Chính trị

Theo hiến pháp, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ là một nhà nước xã hội chủ nghĩa, một nước cộng hòa nhân dân.

Cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước và cơ quan lập pháp duy nhất là Đại Hội đồng Quốc gia (Ardyn Ikh Khural), người đã được bầu 4 năm trên cơ sở quyền bầu cử phổ thông trực tiếp bằng cách bỏ phiếu kín theo tiêu chuẩn: 1 phó từ 4 nghìn cư dân. Đại Khural đã phê chuẩn hiến pháp và sửa đổi nó, xác định các chính sách đối nội và đối ngoại, và các kế hoạch được phê duyệt để phát triển nền kinh tế của đất nước và ngân sách nhà nước. Giữa các phiên họp của Đại Khural, Đoàn chủ tịch là cơ quan quyền lực tối cao.

Cơ quan hành pháp tối cao là chính phủ Mông Cổ (Hội đồng Bộ trưởng), bao gồm Thủ tướng, phó thủ tướng và các bộ trưởng được thành lập bởi Đại Hội đồng Nhân dân.

Phân cấp hành chính

Lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ được chia thành 18 aimag và hai thành phố trực thuộc trung ương là (Ulan Bator và Darkhan):

Các huyện được chia thành volost (somony) và thành phố, thành phố có thể được chia thành thành phố (khorony). Các cơ quan đại diện địa phương là hội đồng của các đại biểu nhân dân, được bầu trong 3 năm. Các cơ quan hành pháp địa phương là các văn phòng điều hành được bầu bởi các hội đồng nhân dân.

Tem thư

Tập tin:Stamp of USSR 1606.jpg|Quốc kỳ và quốc huy Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ Tập tin:Stamp of USSR 1605.jpg|Nhà hát Quốc gia Ulan Bator Tập tin:Stamp of USSR 1604.jpg|Đại học Quốc gia Mông Cổ đặt tên theo Choibalsan Tập tin:1974 CPA 4405.jpg|Tem bưu chính Liên Xô, 1974
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ** ( (БНМАУ), Tập tin:Mongolian People's Republic.svg, _Bügd Nairamdakh Mongol Ard Uls (BNMAU)_) là một nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại ở vùng Đông Á từ năm 1924
**Cộng hòa Nhân dân Bulgaria** ( _Narodna republika Balgariya (NRB)_) là tên chính thức của nước Bulgaria xã hội chủ nghĩa tồn tại từ năm 1946 đến năm 1990, khi mà Đảng Cộng sản Bulgaria
Vị trí Cộng hòa Nhân dân Tuva **Cộng hòa Nhân dân Tuva** (hay **Cộng hòa Nhân dân Tannu Tuva**; tiếng Tuva: Tьвa Arat Respuвlik, Тыва Арат Республик, _Tyva Arat Respublik_; 1921-1944) là một nhà nước
**Cộng hòa Nhân dân Ba Lan** (1952–1989), trước đây là **Cộng hòa Ba Lan** (1944–1952), là một quốc gia ở Trung Âu tồn tại như tiền thân của Cộng hòa Ba Lan dân chủ hiện
nhỏ|Các quốc gia sử dụng danh xưng _cộng hòa nhân dân_: **Cộng hòa nhân dân** () là tên gọi của một số nhà nước hiện nay hoặc trước đây theo chủ nghĩa Marx–Lenin, và của
Trong nhiều thập kỷ, trên quan điểm chính trị, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từng được biết đến là một thực thể chính trị đồng nghĩa với Trung Quốc lục địa. Về mặt lịch
**Cộng hòa Nhân dân Lugansk** (tiếng Nga: _Луга́нская Наро́дная Респу́блика_, phiên sang chữ Latinh: _Luganskaya Narodnaya Respublika_) là một nước Cộng hòa tự tuyên bố độc lập vào ngày 8 tháng 4 năm 2014, lãnh
**Lãnh đạo Đảng và Nhà nước** là thuật ngữ chính trị được sử dụng trên các phương tiện truyền thông về các lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc.Tại
**Quân đội nhân dân Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: _Монголын Ардын Арми_), hay còn được gọi là **Giải phóng quân Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: _Монгол Улаан армийн_) hoặc **Hồng quân Mông Cổ** (tiếng Mông
**Đảng Nhân dân Mông Cổ** thành lập ngày 01 tháng 3 năm 1921, là chính đảng duy nhất lãnh đạo xã hội Mông Cổ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Mông Cổ. Từ
**Cộng hòa Nhân dân Donetsk** (tiếng Nga: _Донецкая народная республика_, phiên sang chữ Latinh: _Donetskaya Narodnaya Respublika_) là một nước Cộng hòa tự xưng, tuyên bố độc lập vào ngày 7 tháng 4 năm 2014.
liên_kết=https://zh.wikipedia.org/wiki/File:Great_Wall_of_China_may_2007.JPG|nhỏ|250x250px|Quốc kỳ Trung Quốc treo trên [[Vạn Lý Trường Thành]] **Quốc kỳ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (), tức là **cờ đỏ năm sao** () là một trong những biểu tượng quốc gia
**Công an nhân dân Việt Nam** là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là lực lượng
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
**Cách mạng Mông Cổ 1921** (), còn gọi là Cách mạng Dân chủ 1921, Cách mạng Ngoại Mông 1921, là một sự kiện quân sự và chính trị do những nhà cách mạng Mông Cổ
**Cách mạng Dân chủ 1990 tại Mông Cổ** (, Ardchilsan Khuvĭsgal, _Cách mạng Dân chủ_) là một cuộc cách mạng chống chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ thuyết cộng sản chủ nghĩa nhằm
**Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng Mông Cổ** bắt đầu vào tháng 10 năm 1919 và kéo dài cho đến đầu năm 1921, khi quân đội Trung Quốc trong Urga bị đánh bại bởi lực
## Thời kỳ đầu tiên nhỏ|trái|Lãnh thổ của người Hung Nô dưới thời vua Mặc Đốn Vùng đất Mông Cổ ngày nay từng là nơi sinh sống của rất nhiều tộc người từ thời tiền
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
**Quốc kỳ Mông Cổ** () có ba sọc đứng đỏ - xanh dương - đỏ. Màu đỏ và xanh dương là hai màu truyền thống của dân tộc Mông Cổ, được sửng dụng rộng rãi
**Đại Mông Cổ** là một khu vực địa lý, bao gồm các vùng lãnh thổ tiếp giáp nhau, chủ yếu là các sắc tộc người Mông Cổ sinh sống. Nó bao gồm gần đúng nhà
nhỏ|phải|Trang phục mùa đông của người Mông Cổ, người Mông Cổ có truyền thống [[đi săn với đại bàng]] nhỏ|phải|[[Lều du mục của người Mông Cổ]] nhỏ|phải|Một lễ hội du mục ở Mông Cổ ([[Naadam)]]
**Negdel** (tiếng Mông Cổ: Нэгдэл, _liên minh, liên hiệp_), tên đầy đủ **Khödöö aj akhuin negdel** (tiếng Mông Cổ: Хөдөө аж ахуйн нэгдэл = _Liên hiệp nông nghiệp_), là thuật ngữ chung cho các hợp
phải|nhỏ|453x453px|Cảnh quan Mông Cổ **Nông nghiệp ở Mông Cổ** chiếm trên 10% tổng sản phẩm quốc nội hàng năm của Mông Cổ và sử dụng một phần ba lực lượng lao động. Tuy nhiên, địa
**Thủ tướng Mông Cổ** () là người đứng đầu chính phủ của Mông Cổ. Thủ tướng do Đại Khural Quốc gia bầu, bãi nhiệm thông qua bỏ phiếu bất tín nhiệm. Thủ tướng đương nhiệm
**Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (giản thể: 中国人民解放军, phồn thể: 中國人民解放軍, phiên âm Hán Việt: Trung Quốc Nhân dân Giải phóng Quân), gọi tắt là **Giải phóng quân**, cũng được gọi là **Quân
**Quốc huy Mông Cổ** (, _Mongol Ulsīn törín süld_) được sử dụng bởi chính phủ Mông Cổ như biểu tượng của nhà nước. Nó chính thức được sử dụng mẫu trên các tài liệu như
nhỏ|Từ "Mông Cổ" trong chữ viết Kirin nhỏ|220x220px|Tượng đài ký tự Kirin được dựng lên trong một dự án chung giữa Bulgaria và Mông Cổ ở [[Nam Cực]] **Bảng chữ cái Kirin Mông Cổ** (tiếng
thumb|Hiệp ước trung lập Nhật-Xô,13 tháng 4 năm 1941.|213x213px **Hiệp ước Xô-Nhật** còn được gọi là hay là bản hiệp ước giữa Liên Xô và Đế quốc Nhật Bản được ký kết vào ngày 13
Hiến pháp Mông Cổ được thông qua vào năm 1992 quy định rằng Tổng thống Mông Cổ là "người đứng đầu nhà nước và là hiện thân sự thống nhất của nhân dân Mông Cổ".
**Điện ảnh Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: _Монголын кино_) là tên gọi ngành công nghiệp Điện ảnh của nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ trước đây và Mông Cổ hiện nay. phải ## Lịch
**Trung Hoa Dân Quốc** (Tiếng Trung: 中華民國; Bính âm: Zhōnghuá Mínguó; Tiếng Anh: Republic Of China) là một quốc gia cộng hòa đã kiểm soát chủ quyền với toàn bộ Trung Quốc từ năm 1912
**Đại hãn quốc Mông Cổ** () là chính phủ Mông Cổ (Ngoại Mông Cổ) giữa năm 1911 và 1919, và một lần nữa từ 1921 tới 1924. Vào mùa xuân năm 1911, một số quý
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Nội Mông Cổ** (Tiếng Trung Quốc: **内蒙古自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Nèi Méng Gǔ Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Nội Mông Cổ tự trị Khu Nhân dân
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
**Hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa XIII nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (giản thể: 中华人民共和国第十三届全国人民代表大会第一次会议 hoặc 十三届全国人大一次会议; phiên âm Hán-Việt: _Đệ thập tam Giới Toàn
Thủ đô [[Ulaanbaatar|Ulan Bator là cổng của hầu hết các quan hệ và thương mại trong nước và quốc tế]] **Kinh tế Mông Cổ** phản ánh tình hình và các hoạt động kinh tế tại
**Phong trào giải phóng dân tộc** là phong trào đấu tranh đòi quyền độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới trong thế kỷ
phải|Bản đồ Mông Cổ và các khu vực tự trị của người Mông Cổ tại Trung Quốc **Dân tộc Mông Cổ (Trung Quốc)** (Tiếng Trung: 蒙古族 _Ménggǔzú_, Mông Cổ tộc) là những công dân Cộng
**Mông Cổ** hiện nay là một nước Cộng hòa dân chủ đại nghị bán tổng thống, theo đó tổng thống được bầu cử trực tiếp. Nhân dân cũng chọn ra các đại biểu quốc hội,
nhỏ|310x310px|Tsedenbal trong trang phục Nguyên soái nước CHND Mông Cổ **Yumjaagiin Tsedenbal** (; 17 tháng 9 năm 1916 – 20 tháng 4 năm 1991) là người đứng đầu nhà nước Mông Cổ từ năm 1940 đến
**Đại Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản** (; thường gọi tắt là **Cách mạng Văn hóa** 文化革命, hay **Văn cách** 文革, _wéngé_) là một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa
**Tỉnh trưởng Chính phủ nhân dân** (, bính âm Hán ngữ: _Shěng jí Xíngzhèngqū Xíngzhèng Shǒuzhǎng_, Từ Hán – Việt: _Tỉnh cấp hành chính khu Hành chính Thủ trưởng_) là vị trí cán bộ, công
**Danh sách các nước cộng hòa** là danh sách liệt kê các quốc gia có chính phủ theo thể chế cộng hòa. ## Các quốc gia cộng hòa theo từng thời kỳ ### Cổ đại
Lễ khai giảng ngày 15 tháng 11 năm [[1945 ở Trường Đại học Quốc gia Việt Nam, cơ sở giáo dục đại học đầu tiên của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] **Giáo
**Mông Cổ** (, _Mongolchuud_, ) định nghĩa là một hay một vài dân tộc, hiện nay chủ yếu cư trú tại Trung Quốc, Mông Cổ và Nga. Ước tính có khoảng 11 triệu người Mông
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Cát Lâm** được bầu cử bởi Đại hội Đại biểu nhân dân tỉnh Cát Lâm, lãnh đạo bởi thành viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cán bộ,
**Các nước cộng hòa của Liên bang Xô viết** được quy định theo Điều 76 của Hiến pháp Xô viết 1977 là những nhà nước Xã hội chủ nghĩa Xô viết có chủ quyền hợp
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
**Ủy ban Sự vụ dân tộc Quốc gia Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (tiếng Trung: 中华人民共和国国家民族事务委员会, gọi ngắn: 国家民委), viết tắt là **Ủy ban Dân sự**, **Ủy ban Dân tộc**, **Dân ủy Quốc gia**