✨Đại Cách mạng Văn hóa vô sản

Đại Cách mạng Văn hóa vô sản

Đại Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản (; thường gọi tắt là Cách mạng Văn hóa 文化革命, hay Văn cách 文革, wéngé) là một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa diễn ra trong 10 năm từ tháng 5 năm 1966 tới tháng 10 năm 1976, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống chính trị, văn hóa, xã hội ở Trung Quốc đại lục. Về mặt tích cực, cuộc cách mạng này đã làm thay đổi quan niệm xã hội, chính trị, tôn giáo và đạo đức của quốc gia này một cách sâu sắc và toàn diện. Tuy nhiên, phong trào này cũng gây ra những vụ bạo động, sự hỗn loạn và tổn thất lớn, nên nó cũng được gọi là "10 năm hỗn loạn", "10 năm thảm họa" ().

Cuộc cách mạng này được Mao Trạch Đông khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16 tháng 5 năm 1966, với mục tiêu chính thức là "đấu tranh với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội". Tuy nhiên, mục đích chính của cách mạng này được một số người cho là để Mao Trạch Đông có thể lấy lại uy tín trong Đảng Cộng sản Trung Quốc sau thất bại của cuộc Đại nhảy vọt dẫn đến việc ông ta bị tổn thất uy tín đáng kể trước những người phản đối chính sách này như Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài,...

Mao tuyên bố rằng "các phần tử tư sản đã xâm nhập vào chính phủ và xã hội", và đang có âm mưu "khôi phục chủ nghĩa tư bản". Lâm Bưu, người đứng đầu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, đã được công nhận trong hiến pháp là người kế vị của Mao sau khi ông ta qua đời; Lâm Bưu biên soạn cuốn sách Hồng bảo thư, tuyển tập những câu nói của Mao, cuốn sách này trở thành một văn bản mang tính thiêng liêng, phục vụ cho sự sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông. Để tiêu diệt các thành phần chống đối trong Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng như trong các trường học, nhà máy và các tổ chức chính phủ, Mao nhấn mạnh rằng những người theo chủ nghĩa xét lại cần phải bị loại bỏ thông qua đấu tranh giai cấp bạo lực. Giới trẻ Trung Quốc hưởng ứng chủ trương này bằng việc thành lập các nhóm Hồng vệ binh trên khắp đất nước. Nhiều trường trung học và đại học đã bị đóng cửa. Các công nhân đô thị cũng chia thành các phe phái, và quân Giải phóng được huy động để khôi phục trật tự. Nhiều quan chức cấp cao, đáng chú ý nhất là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đã bị Hồng vệ binh bắt giam. Khoảng 1,5 triệu người bị Hồng vệ binh buộc tội là "phần tử cánh hữu", họ phải chịu sự sỉ nhục công khai, bị bắt giam, bị tra tấn, bị tịch thu tài sản, và có những người còn bị xử tử hoặc bị ép phải tự tử. Nhiều thanh niên trí thức thành thị đã bị gửi đến các vùng nông thôn trong phong trào Tiến về Nông thôn. Các nhóm Hồng vệ binh quá khích đã phá hủy rất nhiều di tích và hiện vật lịch sử có giá trị, nhiều địa điểm văn hóa và tôn giáo vì cho rằng đó là cách để "diệt trừ tàn dư, hủ tục phong kiến".

Sau khi nhận thấy những sai lầm và quá kích của phong trào này, Mao Trạch Đông tuyên bố rằng cuộc cách mạng văn hóa đã kết thúc vào năm 1969. Hiện nay các nhà phê bình cho rằng cuộc cách mạng này còn âm ỉ trong cả giai đoạn từ 1969 đến 1976. Lâm Bưu, một người bị nghi ngờ là có âm mưu lật đổ Mao, đã bí mật trốn sang Liên Xô và ông ta đã chết trong một vụ tai nạn máy bay tại Mông Cổ vào năm 1971. Sau cái chết của Mao và sự kiện bắt giữ các thành viên của nhóm Tứ nhân bang là (Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên) vào năm 1976, Đặng Tiểu Bình dần hủy bỏ các chính sách sai lầm của Cách mạng Văn hóa. Năm 1981, Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố rằng Cách mạng Văn hóa là một "thất bại nặng nề và là tổn thất nặng nề nhất mà Đảng, nhà nước và nhân dân Trung Quốc phải gánh chịu." Tổng cộng 1,5 đến 1,8 triệu người Trung Quốc bị giết, tự sát hoặc chịu thương tật trong giai đoạn này, khoảng 20 triệu người thành thị bị đưa về nông thôn lao động trong nhiều năm. Khoảng 200 triệu người bị thiếu ăn thường xuyên.

Bối cảnh

Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, Mao Trạch Đông muốn áp dụng mô hình của Stalin để xây dựng đất nước. Mao Trạch Đông tin rằng mô hình của Stalin là phương thức tiến hành cải tạo chủ nghĩa cộng sản tại Trung Quốc. Dưới thời kỳ Khrushchev lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu phủ nhận mô hình của Stalin, còn được gọi chủ nghĩa xét lại. Mao Trạch Đông chống lại chủ nghĩa hữu khuynh, mở rộng đấu tranh giai cấp, bác bỏ chủ nghĩa xét lại về Stalin. Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra quan điểm Mao Trạch Đông phát động Đại Cách mạng Văn hóa để bắt đầu ngăn chặn chủ nghĩa tư bản phục hồi, duy trì Đảng trong sạch và tìm con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng chính mình. Trong Đảng, Mao Trạch Đông chỉ trích đối lập, Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình và chính sách khác là "sai lầm", mâu thuẫn giữa Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông gia tăng, về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đưa ra quan điểm trái ngược với Mao Trạch Đông, để phát triển quan điểm của mình họ đã lập các nhóm nhỏ mà không cần thông báo trước với Mao Trạch Đông. Chính trong thời điểm này, Ủy ban Trung ương Đảng và Mao Trạch Đông đề xuất chủ nghĩa sửa đổi, Đảng và Nhà nước đang đối mặt với chủ nghĩa tư bản phục hồi hết sức nguy hiểm, vài năm trước tại nông thôn thực hiện chính sách "bốn sạch" (, tứ thanh), và tại thành thị là "năm diệt" (, ngũ phiên) và thể hiện sự phê phán các tư tưởng, vận động quần chúng ra sức đấu tranh bảo vệ Đảng và Nhà nước.

Phong trào bốn sạch

Năm 1956, Đại hội Đảng lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ trích Stalin, Mao Trạch Đông phản đối đưa ra quan điểm trái chiều. Tháng 4/1959, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông đưa ra quan điểm, nhấn mạnh sức mạnh được tập trung vào Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương do ông lãnh đạo. Ngày 2/7/1959, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng và Hội nghị Trung ương 8 khóa VIII họp tại Lư Sơn, tại Hội nghị này đã đưa ra quan điểm "đánh đổ tập đoàn phản động Bành" và "bảo vệ con đường đúng đắn của Đảng, đập tan chủ nghĩa cơ hội xét lại". Hội nghị Lư Sơn ban đầu dự định khắc phục sai lầm cực "tả" có tính thuyết phục xuất hiện trong Đại nhảy vọt năm 1958, nhưng đề xuất không được đồng ý trong cuộc họp. Ngày 14/7, Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài gửi thư cho Mao Trạch Đông "Thư gửi Chủ tịch tham khảo", chỉ trích Mao Trạch Đông rằng Đại nhảy vọt là "tính chất cuồng tín của giai cấp tiểu tư sản" và "cần phải ngăn chặn sự nguy hiểm của chủ nghĩa Stalin". Những lời chỉ trích của Bành Đức Hoài tương tự như những lời lẽ của Khrushchev, Bí thư thứ nhất Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cách đây một năm, khi mối quan hệ Trung – Xô sụp đổ. Sau khi Mao Trạch Đông nhận được bức thư đã phân phát trong cuộc thảo luận, Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiên, Chu Tiểu Chu và nhiều người khác đồng ý. Ngày 23/7, Mao Trạch Đông, người chưa bao giờ bày tỏ quan điểm của mình, cân nhắc xu hướng áp đảo trong đảng để khẳng định ý kiến ​​của Bành Đức Hoài rằng lá thư cho thấy "sự rung chuyển của giai cấp tư sản" và tấn công vào đảng. Mao Trạch Đông tức giận với Bành Đức Hoài: "Ông đang chống lại Trung ương, bức thư đã phân phát, để quần chúng đấu tranh, tổ chức lực lượng, thiết lập lại Đảng và thế giới theo khuôn khổ của ông". Ngày 2/8, Mao Trạch Đông đã phát biểu và huy động để phản đối "cuộc tấn công lan rộng của chủ nghĩa cơ hội". Ông tuyên bố rõ ràng rằng không còn là vấn đề chống lại "cực tả" nữa. Bắt đầu từ ngày hôm sau, mỗi nhóm bắt đầu chỉ trích Bành Đức Hoài, Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiên, Chu Tiểu Chu tương ứng.

Đại nhảy vọt

Năm 1958, sau kế hoạch Năm năm lần thứ nhất, Mao Trạch Đông kêu gọi phát triển một "chủ nghĩa xã hội triệt để" trong nỗ lực đưa đất nước sang xã hội cộng sản tự cung tự cấp. Để đạt được mục tiêu này, Mao khởi xướng kế hoạch Đại nhảy vọt, thiết lập các "Xã Nhân dân đặc biệt" (thường gọi là Công xã nhân dân) ở nông thôn thông qua việc sử dụng lao động tập thể và vận động quần chúng. Nhiều cộng đồng dân cư đã được huy động để sản xuất một mặt hàng duy nhất-đó là thép. Và Mao Trạch Đông tuyên bố sẽ tăng sản lượng nông nghiệp lên gấp đôi mức năm 1957. Nhưng trên thực tế,sản lượng nông nghiệp thời kì đó của Trung Quốc còn không bằng thời vua Càn Long và thời nhà Thanh.

Cuộc Đại nhảy vọt là một thất bại về kinh tế. Các ngành công nghiệp rơi vào tình trạng bất ổn vì nông dân sản xuất quá nhiều thép chất lượng thấp trong khi các ngành khác bị bỏ rơi. Hơn nữa, những người nông dân không qua đào tạo và được trang bị nghèo nàn để sản xuất thép, phần lớn dựa vào khu vực sân sau nhà để đạt chỉ tiêu sản xuất thép do các quan chức địa phương đặt ra. Trong khi đó, các công cụ nhà nông chính bị nấu chảy để làm thép khiến quy mô sản xuất nông nghiệp bị thu nhỏ. Điều này dẫn đến sự sụt giảm sản lượng của phần lớn các mặt hàng ngoại trừ gang và thép không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Tồi tệ hơn nữa, để tránh bị phạt, chính quyền địa phương thường xuyên phóng đại các con số và che giấu khiến cho vấn đề thêm trầm trọng trong nhiều năm.

Hầu như chưa phục hồi từ nhiều thập kỷ chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc thêm một lần nữa rơi vào khủng hoảng. Năm 1958, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt buộc phải thừa nhận rằng những số liệu thống kê sản xuất đã bị phóng đại. Ngoài ra, phần nhiều lượng thép sản xuất ra không tinh khiết và vô ích. Trong khi đó, sự hỗn loạn trong các khu sản xuất tập thể, thời tiết xấu và việc xuất khẩu lương thực nhằm đảm bảo an ninh lương thực đã dẫn đến một trận đói kém cực lớn. Thực phẩm trong tình trạng hết sức khan hiếm và sản xuất giảm đáng kể. Theo nhiều nguồn khác nhau, số người chết do nạn đói này gây ra ước tính 20 đến 30 triệu người.

Sự thất bại của cuộc Đại nhảy vọt có tác động lớn lên uy tín của Mao Trạch Đông bên trong Đảng. Năm 1959, ông ta từ chức Chủ tịch nhà nước, và sau đó Lưu Thiếu Kỳ lên thay. Tháng 7 năm 1959, những người lãnh đạo cấp cao của Đảng triệu tập tại Lư Sơn để thảo luận về các quyết sách của Đảng, nhất là các tác động của cuộc Đại nhảy vọt. Tại hội nghị, nguyên soái Bành Đức Hoài, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, đã chỉ trích chính sách của Mao Trạch Đông trong cuộc Đại nhảy vọt là đã quản lý kém và đi ngược lại các quy luật kinh tế.

Chính quyền cũng không dám ngăn chặn hành động của Hồng vệ binh. Xie Fuzhi, cảnh sát trưởng quốc gia, cho biết: "Đừng nói rằng họ sai khi đánh đập những kẻ xấu; nếu trong cơn thịnh nộ mà họ có đánh ai đó đến chết thì cũng có thể hiểu được."

Trong hai năm, đến tận tháng 7 năm 1968 (ở vài nơi, thời gian có thể lâu hơn), các nhóm hoạt động của Hội sinh viên như lực lượng Hồng vệ binh đã mở rộng lĩnh vực quyền lực của mình, và gia tăng các nỗ lực tái thiết Xã hội chủ nghĩa. Họ bắt đầu bằng cách phát tờ rơi giải thích cho hành động phát triển và củng cố Chủ nghĩa xã hội của họ và đưa tên các nhân vật bị khép tội "phản cách mạng" lên trên bảng tin của trường. Họ tập hợp lại thành từng nhóm lớn, tổ chức các buổi tranh luận lớn, và viết các vở kịch mang tính "giáo dục". Họ tổ chức các cuộc họp công cộng để chỉ trích những lời bào chữa của các bị cáo "phản cách mạng".

phải|Hồng bảo thư, ấn bản tiếng Anh Đây là một trong nhiều trích đoạn từ cuốn Hồng bảo thư mà sau này Hồng vệ binh luôn mang theo như một sự chỉ dẫn hành động từ phía Mao Trạch Đông. Đó là kim chỉ nam cho hành động vì mục tiêu tương lai của Hồng vệ binh. Những trích dẫn trực tiếp từ lời của Mao đã dẫn đến các hành động khác của Hồng vệ binh dưới quan điểm của các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mao khác. Mặc dù Thông cáo 16 điểm và các tuyên bố khác từ các nhà lãnh đạo cấp cao khác của Chủ nghĩa Mao đều ngăn cấm hình thức "bạo động vũ trang" (vũ đấu) và ủng hộ "đấu tranh tâm lý" (văn đấu), nhưng những cuộc đấu tranh này thường dẫn đến việc sử dụng vũ lực. Ban đầu, những cuộc khẩu chiến giữa các nhóm hoạt động thậm chí trở thành bạo lực, nhất là khi họ bắt đầu tước vũ khí của quân đội năm 1967. Những người khởi xướng Chủ nghĩa Mao đã giới hạn hoạt động của Hồng vệ binh trong khuôn khổ hình thức "bất bạo động", nhưng đôi khi chính điều đó lại dường như khuyến khích bạo lực; và chỉ sau các vụ cướp vũ khí quân đội của Hồng vệ binh, họ mới bắt đầu đàn áp các phong trào quần chúng. Lưu Thiếu Kỳ bị đưa vào một trại tạm giam và qua đời tại đó năm 1969. Đặng Tiểu Bình cũng bị đưa đi "cải tạo" ba lần và cuối cùng phải làm việc trong một nhà máy cơ khí cho đến khi Chu Ân Lai đưa ông trở lại vài năm sau đó. Tuy nhiên, phần lớn những người bị bắt giữ không được may mắn như vậy và nhiều người trong số họ không bao giờ được quay trở lại.

Hành động của Hồng vệ binh được chủ tịch Mao Trạch Đông ca ngợi. Ngày 22 tháng 8 năm 1966, ông ban hành một thông cáo chung, trong đó quy định cấm mọi sự can thiệp từ phía cảnh sát vào hoạt động của Hồng vệ binh. Người nào làm trái với Thông cáo đó sẽ bị gán cho tội danh "phản cách mạng".

Ngày 5 tháng 9 năm 1966, một thông cáo khác được ban hành khuyến khích tất cả Hồng vệ binh đến Bắc Kinh trong một quãng thời gian xác định. Tất cả chi phí, bao gồm ăn ở và đi lại sẽ được chính quyền chi trả. Ngày 10 tháng 10 năm 1966, một đồng minh của Mao là Lâm Bưu đã công khai chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình là "những kẻ dẫn đường cho Chủ nghĩa Tư bản" và là "mối đe dọa" đến Chủ nghĩa Xã hội. Sau đó, Bành Đức Hoài cũng bị đưa đến Bắc Kinh và bị truy tố trước quần chúng.

1967

Ngày 3 tháng 1 năm 1967, Lâm Bưu và Giang Thanh đã sử dụng truyền thông và cán bộ địa phương để tạo ra cái gọi là "Bão táp tháng Giêng", trong đó nhiều quan chức cấp cao Thượng Hải cũng bị chỉ trích nặng nề và bị đem ra truy tố. Điều này đã mở đường cho Vương Hồng Văn nắm quyền quản lý thành phố với chức danh người đứng đầu Ủy ban Cách mạng thành phố. Do đó, chính quyền thành phố bị bãi bỏ. Ở Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình một lần nữa trở thành mục tiêu của sự chỉ trích, nhưng những chỉ trích khác cũng nhắm vào các việc làm sai trái của Phó thủ tướng Trần Vân. Các quan chức chính phủ hay đảng viên địa phương cũng nhân cơ hội này để cáo buộc địch thủ tội "phản cách mạng".

Ngày 8 tháng Giêng, Mao đã ca ngợi những hành động này thông qua tờ báo của Đảng là tờ Nhân dân Nhật báo, khuyến khích các quan chức địa phương phê bình và tự phê bình nếu có dính líu tới hoạt động "phản cách mạng". Điều này dẫn đến các cuộc thanh trừng trên diện rộng và liên tiếp giữa các quan chức địa phương khiến cho chính quyền nhân dân ở nhiều địa phương bị tê liệt hoàn toàn. Tham gia vào các cuộc thanh trừng "phản cách mạng" này là cách duy nhất để tránh bị thanh trừng, nhưng cũng không có gì đảm bảo.

Vào tháng hai, Giang Thanh và Lâm Bưu, dưới sự ủng hộ của Mao, đã nhấn mạnh rằng "đấu tranh giai cấp" cần mở rộng sang ngành quân đội. Nhiều tướng lĩnh chủ chốt trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa đã tỏ thái độ lo ngại và phản đối Cách mạng văn hóa; họ gọi đó là "một sự sai lầm". Cựu Bộ trưởng Ngoại giao là Trần Nghị đã tỏ ra tức giận ngay trong cuộc họp Bộ Chính trị, và nói rằng sự chia bè kết phái sẽ hủy hoại quân đội hoàn toàn và sau đó là đến Đảng.

Các tướng lĩnh khác, bao gồm Nhiếp Vinh Trăn, Hạ Long và Từ Hướng Tiền cũng bày tỏ sự bất mãn. Họ lần lượt bị tố cáo bởi các phương tiện truyền thông quốc gia dưới sự kiểm soát của Trương Xuân Kiều và Diêu Văn Nguyên. Cuối cùng thì tất cả bọn họ đều bị thanh trừng bởi Hồng vệ binh. Cùng lúc đó, nhiều đơn vị Hồng vệ binh lớn quay sang đối đầu với nhau do mâu thuẫn về lập trường cách mạng khiến cho tình hình thêm phức tạp và làm đất nước thêm hỗn loạn.

Do vậy, Giang Thanh đã ra thông báo dừng tất các hành động không lành mạnh bên trong lực lượng Hồng vệ binh. Ngày 6 tháng 4, Lưu Thiếu Kỳ đã bị lên án công khai và rộng rãi bởi nhóm thành viên gồm Giang Thanh, Khang Sinh, thậm chí có cả Mao. Tiếp theo đó là một kháng nghị và các cuộc tuần hành của quần chúng, đáng chú ý nhất là cuộc tuần hành ở Vũ Hán ngày 20 tháng 7. Trong nơi này, Giang Thanh đã công khai tố cáo bất kỳ "hành động phản cách mạng nào"; sau đó đích thân bà ta bay tới Vũ Hán để chỉ trích Trần Tái Đạo, tướng phụ trách khu vực Vũ Hán.

Ngày 22 tháng 7, Giang Thanh chỉ đạo Hồng vệ binh thay thế Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa nếu cần thiết, do đó làm cho lực lượng vũ trang hiện tại bị vô hiệu. Sau lần ca ngợi ban đầu của Giang Thanh, Hồng vệ binh bắt đầu cướp phá các doanh trại và các tòa nhà quân đội. Hành động này đã không thể bị ngăn chặn bởi các tướng lĩnh quân đội và kéo dài tới tận mùa thu năm 1968.

1968

phải|Là cánh tay đắc lực của Mao, quyền lực của [[Lâm Bưu chỉ dưới Mao.]] Mùa xuân 1968, một chiến dịch lớn nổ ra nhằm mục đích đẩy mạnh tôn sùng Mao Trạch Đông lên mức ngang thần thánh. Ngày 27 tháng 7 năm 1968, sự lấn quyền quân đội của Hồng vệ binh chính thức kết thúc và chính quyền trung ương gửi các đơn vị quân đội tới để bảo vệ nhiều khu vực là mục tiêu của Hồng vệ binh. Mao ủng hộ và thúc đẩy ý tưởng cho phép quần chúng lắng nghe một trong những chỉ dẫn tối cao của mình. Một năm sau đó, các nhóm Hồng vệ binh hoàn toàn tan rã vì Mao sợ rằng sự hỗn loạn do họ gây ra có thể làm hại nền tảng căn bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong bất kỳ trường hợp nào thì mục tiêu của Hồng vệ binh đã đạt được và Mao đã củng cố được quyền lực chính trị của mình.

Đầu tháng 10, Mao tiến hành chiến dịch thanh trừng những quan chức không trung thành với ông ta. Họ bị đưa tới vùng nông thôn và làm việc trong các trại lao động. Cũng trong tháng này, tại Đại hội Đảng lần thứ 12-khóa 8, Lưu Thiếu Kỳ bị trục xuất vĩnh viễn ra khỏi Đảng và Lâm Bưu được đưa lên giữ chức Phó Chủ tịch Đảng và được Mao chọn làm người kế tục. Địa vị và danh tiếng của Bưu chỉ xếp sau Mao.

Lâm Bưu, người được Mao chọn kế vị, trở thành nhân vật nổi bật nhất trong cuộc Đại Cách mạng văn hóa sau năm 1968. Tháng 12 năm 1971, Trung Quốc (và thế giới) bị sốc sau khi một chiếc máy bay bị rơi ở Mông Cổ và Lâm Bưu được cho là một trong những hành khách xấu số. Sự kiện này xảy ra sau một loạt những nỗ lực ám sát Mao bất thành. Từ đó đến nay, chưa thể xác minh được các sự kiện liên quan đến Lâm Bưu trong giai đoạn 1968-1971 với độ thuyết phục và chính xác được vì lý do nhạy cảm chính trị xung quanh sự kiện máy bay rơi đó. Những năm tháng quyền lực của Lâm Bưu và cái chết đầy bí ẩn của ông ta là chủ đề quan tâm của nhiều sử gia khắp thế giới nhưng chưa một ai có thể đưa ra kết luận xác đáng về vấn đề đó.

Tháng 12 năm 1968, Mao triển khai Phong trào Tiến về nông thôn. Phong trào kéo dài từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 đã huy động hàng trăm ngàn trí thức trẻ sống ở các thành phố đi về các vùng nông thôn để sống, lao động và học hỏi kinh nghiệm của những người công nhân và nông dân. Từ "trí thức" lúc đó được dùng với nghĩa rộng nhất là những học sinh mới tốt nghiệp trung học. Cuối những năm 1970, những "trí thức trẻ" này cuối cùng cũng được phép trở về thành phố quê nhà. Xét khía cạnh nào đó thì phong trào này là một cách thức điều chuyển các thành viên Hồng vệ binh từ thành phố về nông thôn, nơi mà họ ít có khả năng gây loạn nhất.

1969

Đại hội Đảng IX được tổ chức vào tháng 4 năm 1969, và phục vụ như là một phương tiện để "hồi sinh" đảng với tư duy mới và cán bộ mới sau khi nhiều thành phần lãnh đạo cũ đã bị loại trừ trong các cuộc đấu tranh của những năm trước đó. Khuôn khổ thể chế của Đảng thành lập hai thập kỷ trước đó đã bị hư hại gần như hoàn toàn: cho nên đại biểu Quốc hội lần này thực ra đã được lựa chọn bởi Ủy ban cách mạng chứ không phải thông qua bầu cử của đảng viên . Con số đại diện của quân đội tăng lên nhiều so với đại hội trước đó (28% các đại biểu là thành viên Quân Giải phóng Nhân dân), và việc bầu cử thêm nhiều thành viên Quân Giải phóng Nhân dân vào Ủy ban Trung ương mới phản ánh sự gia tăng này. Nhiều sĩ quan quân đội được lên chức trung thành với thống soái Quân Giải phóng Nhân dân Lâm Bưu, thành hình một phe phái mới phân chia giữa lãnh đạo quân đội và dân sự.

Hậu quả và di chứng

Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đã để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về kinh tế, xã hội mà cả về văn hóa. Trước khi Mao Trạch Đông qua đời, người ta có ước tính rằng có khoảng 12 đến 20 triệu người, gồm 5,4 triệu Hồng vệ binh, đã trải qua lao động nặng nhọc ở nông thôn, trong đó là 1 triệu người dân Thượng Hải, tức là 18% dân số của thành phố lúc đó. Số nạn nhân trong giai đoạn này có nhiều ước tính khác nhau, nhưng chắc chắn là rất lớn. Theo nhà nghiên cứu Rudolph Rummel, từ năm 1964 đến năm 1975, khoảng 7,7 triệu người Trung Quốc là nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp bởi phong trào này do đói kém và xung đột dân sự. Khoảng 3 triệu người (trong đó có nhiều Đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc) bị kỷ luật hoặc cầm tù, 60% đảng viên bị khai trừ, nhiều người trong số họ bị trục xuất về nông thôn để lao động nặng nhọc trong thời gian diễn ra Cách mạng văn hóa. Về mặt xã hội, trong thời Cách mạng văn hóa, nhiều trường đại học ở Trung Quốc đã bị đóng cửa, dẫn đến hậu quả là cả một thế hệ người Trung Quốc không được tiếp cận với giáo dục đại học. Trong thập niên 1980, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc khi đó là Hồ Diệu Bang đã nhận xét rằng: "Khoảng 100 triệu người Trung Quốc đã chịu đau khổ trong thời kỳ này".

Nhận định

Đặng Tiểu Bình đã nhận định những sai lầm của cuộc Cách mạng Văn hóa có phần trách nhiệm của Mao Trạch Đông trên cương vị người lãnh đạo đất nước, nhưng mặt khác nó cũng là do sự kích động quá khích của đám đông quần chúng khiến việc thi hành phong trào trở nên hỗn loạn, chệch hẳn so với dự định ban đầu: : "Cách mạng Văn hóa là một sai lầm. Chúng ta phải mạnh dạn chối bỏ sai lầm này của Mao trong những năm tháng cuối đời của ông. Nhưng cũng cần nhìn vào sự thật. Sự thật là không phải mọi sai lầm và quá đáng trong cuộc Cách mạng Văn Hóa đều do Mao."

Trong Nghị quyết năm 1981 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Cách mạng văn hóa được nêu lên với kết quả là "gây ra bất ổn định xã hội, và gây ra thảm họa cho Đảng, nhà nước, và nhân dân".

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đại Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản** (; thường gọi tắt là **Cách mạng Văn hóa** 文化革命, hay **Văn cách** 文革, _wéngé_) là một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa
**Văn học chấn thương** () là một thể loại văn học Trung Quốc xuất hiện vào cuối thập niên 1970 trong thời kỳ _chuyển loạn thành chính_, ngay sau cái chết của Mao Trạch Đông,
**Mao Trạch Đông** (phồn thể: 毛澤東; giản thể: 毛泽东; bính âm: _Máo Zédōng_; 26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), còn được người dân Trung Quốc gọi với tên tôn kính
**Tạ Phi** (; 3 tháng 2 năm 1913 – 14 tháng 2 năm 2013) là một nhà cách mạng và chính trị gia người Trung Quốc. Bà đã tham gia vào Vạn lý Trường chinh
**Tập Cận Bình** (giản thể: 习近平; phồn thể: 習近平; bính âm: _Xí Jìnpíng_; phát âm: [ɕǐ tɕînpʰǐŋ], sinh ngày 15 tháng 6 năm 1953) là một chính trị gia người Trung Quốc. Ông hiện đang
thumb|Thông báo này, vốn là một tài liệu xuất bản bí mật trong đảng mà chỉ những cán bộ xếp trên hạng 17 mới được phép đọc, đã được giải mật và đăng trên _[[Nhân
**Bành Bội Vân** (giản thể: 彭佩云; sinh năm 1929 tại Lưu Dương, tỉnh Hồ Nam) là chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. ## Tiểu sử Bành Bội Vân được nhận vào Đại
**Sáu điều Công an** (), chính thức gọi là **Quy định về Tăng cường Công tác An ninh Công cộng trong Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản** (), là một chỉ thị được Ban
thumbnail|alt=|
Xã luận _Quét sạch tất cả trâu quỷ rắn thần_
**_Quét sạch tất cả trâu quỷ rắn thần_** (, Pinyin: Héngsǎo yīqiè níuguǐ shéshén, Hán-Việt: _Hoành tảo nhất thiết ngưu quỷ xà thần_),
**Hoa Quốc Phong** (), tên khai sinh: **Tô Chú** (), (16 tháng 2 năm 1921 - 20 tháng 8 năm 2008) là người được chỉ định kế tục Mao Trạch Đông trở thành lãnh tụ
**Từ Hải Đông** (17 tháng 6 năm 1900 - 25 tháng 3 năm 1970) là một tướng lĩnh cao cấp của Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc. Ông là một trong 10 quân nhân
nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily trên Quảng trường Đỏ, ở Moskva|thế=]] **Văn hóa Nga** có truyền thống lâu đời về nhiều mặt của nghệ thuật, đặc biệt khi nói đến văn học, múa dân
**Giang Thanh** (chữ Hán: 江青; bính âm: _Jiang Qing_; nghệ danh là Lam Bình; 1914–1991) là người vợ thứ ba của Mao Trạch Đông, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa. Bà cũng
**Đại hội đại biểu Toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc** () hay còn được gọi là được gọi là **Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc** được tổ chức 5 năm 1 lần do
**Phong trào Tân văn hóa** từ giữa thập niên 1910 đến thập niên 1920 là cuộc vận động văn hóa chính trị, khởi xướng bởi các trí thức vỡ mộng với văn hóa Trung Quốc
**Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa III** () được tổ chức từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 4 năm 1982 tại thành phố Viêng Chăn. Đại hội có 228 đại biểu
**Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3**, hay còn được gọi **Cách mạng kỹ thuật số** (), kỷ nguyên công nghệ thông tin, diễn ra từ những năm 1950 đến cuối những năm 1970, với
**Kha Khánh Thi** (tiếng Trung 柯庆施; 10 tháng 10 năm 1902 – 9 tháng 4 năm 1965) là chính khách Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và là nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Vân Nam** (Tiếng Trung Quốc: 云南省人民政府省长, Bính âm Hán ngữ: _Yún Nán shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Vân Nam tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu
**Thuyết "Ba đại diện" hoặc tư tưởng quan trọng "Ba đại diện"** (chữ Hán: "三个代表" 重要思想, Hán-Việt: "Tam cá đại biểu" trọng yếu tư tưởng) là học thuyết do Giang Trạch Dân đưa ra. Học
**Bộ Tuyên truyền Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc** (tiếng Trung: 中国共产党中央委员会宣传部, bính âm Hán ngữ: _Zhōngguó gòngchǎndǎng zhōngyāng wěiyuánhuì Xuānchuán bù,_ từ Hán - Việt: _Trung Quốc Cộng sản Đảng Trung
nhỏ|[[Chiếm ngục Bastille|Đột chiếm ngục Bastille, 14/7/1789 trong Cách mạng Pháp.]] **Cách mạng** là một phương pháp của nhân dân hoặc một tổ chức mà trong đó các hoạt động đấu tranh diễn ra liên
**Văn hoá Đài Loan** là sự pha trộn giữa nhà Khổng giáo và các nền văn hoá thổ dân Đài Loan, thường được hiểu theo nghĩa truyền thống và hiện đại. Kinh nghiệm chính trị
**Vụ thảm sát Daoxian**, hay **vụ thảm sát ở huyện Đạo**, là một vụ bạo lực và giết hại 4.519 người xảy ra ở huyện Đạo, Hồ Nam, Trung Quốc và kéo dài trong 66
**Cách mạng vô sản** là một cuộc cách mạng xã hội trong đó giai cấp công nhân cố gắng lật đổ giai cấp tư sản. Các cuộc cách mạng vô sản nói chung được những
thumb|Áp phích tuyên truyền có nội dung: "Toàn Đảng huy động đảng viên làm nông nghiệp trên diện rộng; đấu tranh để phổ biến huyện Đại Trại!" "**Nông nghiệp học Đại Trại**" () là một
thumb|Tháp nước [[ga Trúc Mã Quán ở thành phố Kim Hoa, tỉnh Chiết Giang có khắc dòng chữ "Công nghiệp học Đại Khánh".]] "**Công nghiệp học Đại Khánh**" ( là phong trào chính trị do
**Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa**, thường được gọi là **chủ tịch nước Trung Quốc**, là nguyên thủ quốc gia của Trung Quốc. Chủ tịch nước là một chức vụ mang tính
thumb|Một buổi phê đấu [[Tập Trọng Huân, cha của Tập Cận Bình, tại Đại học Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Bắc trong Cách mạng Văn hóa (tháng 9 năm 1967).]] **Đại hội
**Cách mạng Tháng Mười**, còn được gọi là **Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại** trong các sử liệu Liên Xô; các tên gọi khác được sử dụng rộng rãi trong giới
**Cách mạng Tân Hợi** () còn được gọi là **Cách mạng Trung Quốc** hay **Cách mạng năm 1911** là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc do những người trí
Mô hình [[động cơ hơi nước của James Watt. Sự phát triển máy hơi nước khơi mào cho cuộc cách mạng công nghiệp Anh.]] **Cuộc cách mạng công nghiệp** hay còn gọi là **Cách mạng
**Chu Ân Lai** () (5 tháng 3 năm 1898 – 8 tháng 1 năm 1976), là một lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc, từng giữ chức Thủ tướng Cộng hoà Nhân
**Cách mạng Guatemala** (), cũng được gọi là **Thập kỷ xuân**, là một thời kỳ trong lịch sử Guatemala từ khi Jorge Ubico bị đảo chính vào năm 1944 đến khi Jacobo Árbenz bị đảo
**Lưu Thiếu Kỳ** (24 tháng 11, 189812 tháng 11, 1969) là một nhà cách mạng, nhà chính trị và nhà lý luận người Trung Quốc. Ông là Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại
**Tiền đề của Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga** - một tập hợp phức tạp các biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa trong và ngoài nước có mối
**Tứ nhân bang** (giản thể: 四人帮, phồn thể; 四人幫, bính âm: Sì rén bāng) hay còn được gọi là **"bè lũ bốn tên"** theo các phương tiện truyền thông của Việt Nam, là cụm từ
**Cách mạng Mông Cổ 1921** (), còn gọi là Cách mạng Dân chủ 1921, Cách mạng Ngoại Mông 1921, là một sự kiện quân sự và chính trị do những nhà cách mạng Mông Cổ
**Cách mạng Zanzibar** diễn ra vào năm 1964, kết quả là các nhà cách mạng người Phi địa phương phế truất quốc vương của Zanzibar và chính phủ có thành phần chủ yếu là người
nhỏ|Tác phẩm _[[Khế ước xã hội_ (Du contrat social) của Jean-Jacques Rousseau]] **Nguyên nhân gây nên cuộc Cách mạng Pháp** bao gồm những yếu tố lịch sử quan trọng dẫn đến cuộc đại cách mạng
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Cách mạng Pháp**, sử liệu Marxist thường gọi là **Cách mạng tư sản Pháp**, là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Pháp vào cuối thế kỷ XVIII, diễn ra từ năm 1789 đến
thumb|Từ bên trái: Hàn Chấn Kỷ, Lưu Thụy Long, Điền Thú Nghiêu, [[Trương Ái Bình và Vi Quốc Thanh, đánh dấu cuộc họp của Đơn vị 5 của Bát lộ quân và Bộ Tư lệnh
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
"**Nhất vô sở hữu**" (còn gọi là "**Nothing to My Name**" hay "**I Have Nothing**") là một nhạc phẩm tiếng Hán tiêu chuẩn thuộc thể loại rock của nghệ sĩ Thôi Kiện. Bài hát này
**Trần Vĩnh Quý** (; 14 tháng 2 năm 1915 – 26 tháng 3 năm 1986) là nông dân và chính khách Trung Quốc. Dù là một nông dân mù chữ nhưng ông từng là Ủy
**Cách mạng Đại Tây Dương** (22 tháng 3 năm 1765 – 4 tháng 12 năm 1838) là một chuỗi các cuộc cách mạng ở Châu Mỹ và Châu Âu bắt đầu vào cuối thế kỷ
**_Hải Thụy bãi quan_** () là vở kinh kịch nổi tiếng trong nền chính trị Trung Quốc đương đại vì đã mở đầu cuộc Cách mạng Văn hóa. Bản thân vở kịch tập trung vào
thumb|Chân dung ông Tập Cận Bình tại [[Bắc Kinh, tháng 9 năm 2015]] Sự sùng bái cá nhân đã hình thành xung quanh Tập Cận Bình kể từ khi ông trở thành Tổng Bí thư
**Tôn Kiện** (; 1936 – tháng 11 năm 1997) là công nhân nhà máy từng được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1975 cho đến năm 1978 trong giai đoạn