✨Cách mạng công nghiệp lần thứ ba

Cách mạng công nghiệp lần thứ ba

Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3, hay còn được gọi Cách mạng kỹ thuật số (), kỷ nguyên công nghệ thông tin, diễn ra từ những năm 1950 đến cuối những năm 1970, với sự áp dụng phổ biến máy tính kỹ thuật số và lưu giữ hồ sơ kỹ thuật số còn áp dụng đến ngày nay. Ngẫu nhiên, thuật ngữ này cũng dùng đề cập đến những thay đổi sâu rộng do công nghệ điện toán và truyền thông kỹ thuật số mang lại ở giai đoạn nửa sau của thế kỷ 20. Tương tự như cuộc Cách mạng Nông nghiệp và Cách mạng Công nghiệp, cuộc Cách mạng Kỹ thuật số đánh dấu sự khởi đầu của Kỷ nguyên thông tin.

Trọng tâm của cuộc cách mạng này là việc sản xuất hàng loạt và sử dụng rộng rãi logic kỹ thuật số, MOSFET (bóng bán dẫn MOS), chip mạch tích hợp (IC) và các công nghệ dẫn xuất của chúng, bao gồm máy tính, bộ vi xử lý, điện thoại di động và Internet. Những đổi mới công nghệ này đã làm thay đổi các kỹ thuật sản xuất và kinh doanh truyền thống, tăng năng suất và là động lực thúc đẩy cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Lịch sử

Nguồn gốc (1947 - 1969)

Năm 1947, bóng bán dẫn đầu tiên hoạt động, bóng bán dẫn tiếp xúc điểm (Point-contact transistor) dựa trên Germani, được phát minh bởi John Bardeen và Walter Houser Brattain hai cộng sự làm việc dưới William Shockley tại Bell Labs. Đã mở đầu cho các máy tính kỹ thuật số tiên tiến hơn sau này. Từ cuối những năm 1940, các trường đại học, quân đội và doanh nghiệp đã phát triển các hệ thống máy tính, để sao chép kỹ thuật số và tự động hóa các phép tính toán được thực hiện thủ công trước đó, LEO là máy tính đa năng đầu tiên có bán trên thị trường.

Vào cuối những năm 1950, kỹ sư của Bell Labs, Mohamed M. Atalla đã chứng minh tính hiệu quả của silic như một vật liệu bán dẫn với quá trình thụ động bề mặt của nó bằng qua sự oxy hóa nhiệt. Điều này dẫn đến một số cột mốc quan trọng trong công nghệ bán dẫn silic trong năm 1959: quá trình xử lý Planar của Jean Hoerni và chip mạch tích hợp nguyên khối (IC) của Robert Noyce tại Fairchild Semiconductor, và bóng bán dẫn sử dụng hiệu ứng trường bán dẫn oxit kim loại (MOSFET, hoặc bóng bán dẫn MOS) của Mohamed Atalla và Dawon Kahng tại Bell Labs. Những phát triển này đã mở đường cho việc sản xuất hàng loạt các thiết bị bán dẫn silic hợp MOS vào đầu những năm 1960, chip MOS đạt mật độ bóng bán dẫn cao hơn và chi phí sản xuất thấp hơn so với mạch tích hợp lưỡng cực vào năm 1964. Chip MOS tăng thêm về độ phức tạp theo luật dự đoán của Moore, dẫn đến tích hợp quy mô lớn (LSI) với hàng trăm bóng bán dẫn trên một chip MOS vào cuối những năm 1960. Việc ứng dụng chip MOS LSI vào điện toán là cơ sở cho các bộ vi xử lý đầu tiên, khi các kỹ sư bắt đầu nhận ra rằng một bộ xử lý máy tính hoàn chỉnh có thể được chứa trên một chip MOS LSI duy nhất. Năm 1968, kỹ sư Federico Faggin của Fairchild đã cải tiến công nghệ MOS với việc phát triển chip MOS cổng silicon, bộ vi xử lý đơn chip đầu tiên. Nó được Intel phát hành vào năm 1971 và đặt nền móng cho cuộc cách mạng vi máy tính bắt đầu từ những năm 1970.

Công nghệ MOS cũng dẫn đến sự phát triển của cảm biến hình ảnh bán dẫn phù hợp với máy ảnh kỹ thuật số. Cảm biến hình ảnh đầu tiên là thiết bị ghép điện tích, được phát triển bởi Willard S. Boyle và George E. Smith tại Bell Labs vào năm 1969, dựa trên công nghệ tụ điện MOS.

Công chúng lần đầu tiên được giới thiệu các khái niệm dẫn đến Internet khi một tin nhắn được gửi qua ARPANET vào năm 1969. Các mạng chuyển mạch gói như ARPANET, Mark I, CYCLADES, Merit Network, Tymnet và Telenet, được phát triển vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 bằng nhiều giao thức khác nhau. ARPANET đặc biệt dẫn đến sự phát triển của các giao thức cho liên kết mạng, trong đó nhiều mạng riêng biệt có thể được nối với nhau thành một mạng lưới.

Phong trào Toàn Trái Đất (Whole Earth) trong thập niên 1960 ủng hộ việc sử dụng công nghệ mới. Stewart Brand từng có một cuốn sách nói về phong trào này với tựa đề "Whole Earth Catalog".

Thập niên 1970

nhỏ|Một ví dụ về máy game arcade Vào những năm 1970, máy tính gia đình đã được giới thiệu, máy tính chia sẻ thời gian, máy chơi trò chơi điện tử, trò chơi video coin-op đầu tiên, và thời kỳ hoàng kim của trò chơi điện tử arcade bắt đầu từ Space Invaders. Khi công nghệ kỹ thuật số phát triển và việc chuyển đổi từ lưu trữ analog sang lưu trữ hồ sơ kỹ thuật số đã trở thành tiêu chuẩn mới trong kinh doanh, một công việc tương đối mới đã được ra đời như nhân viên nhập liệu. Lấy từ hàng ngũ thư ký và đánh máy từ những thập kỷ trước, công việc của nhân viên nhập dữ liệu là chuyển đổi dữ liệu tương tự (hồ sơ khách hàng, hóa đơn, v.v...) thành dữ liệu số.

Một phát triển quan trọng trong công nghệ nén dữ liệu kỹ thuật số là biến đổi cosine rời rạc (DCT), một kỹ thuật nén mất mát được đề xuất lần đầu tiên bởi Nasir Ahmed vào năm 1972, ban đầu được dự định để nén hình ảnh. Nén DCT sau này trở thành nền tảng cho Cuộc cách mạng kỹ thuật số, là nền tảng cho hầu hết các tiêu chuẩn nén phương tiện truyền thông kỹ thuật số từ cuối những năm 1980 trở đi, bao gồm các định dạng hình ảnh kỹ thuật số như JPEG (1992), các định dạng mã hóa video như H.26x (1988 trở đi) và MPEG (1993 trở đi) - được biết đến nhiều hơn với định dạng MP4 (1998), các tiêu chuẩn nén âm thanh như Dolby Digital (1991) và MP3 (1994), và các tiêu chuẩn truyền hình kỹ thuật số như video theo yêu cầu (VOD) và truyền hình độ nét cao (HDTV).

Thập niên 1980

Tại các quốc gia phát triển, máy tính đã dần trở nên thực sự phổ biến trong suốt thập niên 1980 khi chúng xuất hiện khắp các trường học, các hộ gia đình, doanh nghiệp và tại các nhà máy. Máy rút tiền tự động, robot công nghiệp, CGI trong phim và truyền hình, nhạc điện tử, hệ thống bảng thông báo và trò chơi điện tử đã trở thành chủ nghĩa tư tưởng của thập niên 1980. Hàng triệu người đã mua máy tính gia đình, nhưng cái tên đầu tiên trong ngành sản xuất máy tính cá nhân có thể kể đến như Apple, Commodore và Tandy. Cho đến ngày nay, Commodore 64 thường được coi là máy tính bán chạy nhất mọi thời đại, đã bán được 17 triệu chiếc trong khoảng từ 1982 đến 1994.

Năm 1984, Cục điều tra dân số Hoa Kỳ bắt đầu thu thập dữ liệu về việc sử dụng máy tính và Internet ở Hoa Kỳ; cuộc khảo sát đầu tiên của họ vào năm 1984 cho thấy rằng 8.2% trong tổng số hộ gia đình ở Mỹ sở hữu máy tính cá nhân, trong đó có 15,3% các hộ gia đình có trẻ em dưới 18 tuổi và 22,9 % các hộ gia đình trung và thượng lưu. Đến năm 1989, 15% tổng các hộ gia đình ở Mỹ sở hữu máy tính và trong số đó, gần 30% hộ gia đình có trẻ em dưới 18 tuổi. Vào cuối những năm 1980, nhiều doanh nghiệp phụ thuộc vào máy tính và công nghệ kỹ thuật số.

Motorola đã tạo ra điện thoại di động đầu tiên, Motorola DynaTac, vào năm 1983. Tuy nhiên, thiết bị này sử dụng giao tiếp analog - điện thoại di động kỹ thuật số không được bán thương mại cho đến năm 1991 khi mạng 2G bắt đầu được sử dụng ở Phần Lan để đáp ứng nhu cầu cho điện thoại di động.

Máy ảnh kỹ thuật số thực sự đầu tiên được tạo ra vào năm 1988, và lần đầu tiên được bán ra thị trường vào tháng 12 năm 1989 tại Nhật Bản và năm 1990 tại Hoa Kỳ. Vào giữa những năm 2000, chúng đã làm lu mờ sự phổ biến của máy ảnh phim truyền thống.

Mực kỹ thuật số cũng được phát minh vào cuối những năm 1980. Hệ thống CAPS của Disney (được tạo ra năm 1988) đã được sử dụng cho một cảnh trong The Little Mermaid năm 1989 và cho tất cả các bộ phim hoạt hình The Rescuers Down Under giữa thập kỉ 1990 và Home on the Range năm 2004.

Tim Berners-Lee đã phát minh ra World Wide Web vào năm 1989. Liên minh tín dụng liên bang Stanford là tổ chức tài chính đầu tiên cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến cho tất cả các thành viên của mình vào tháng 10 năm 1994. Năm 1996, OP Financial Group, cũng là một ngân hàng hợp tác, trở thành ngân hàng trực tuyến thứ hai trên thế giới và đầu tiên ở châu Âu. Internet mở rộng nhanh chóng và đến năm 1996, nó là một phần của văn hóa đại chúng và nhiều doanh nghiệp liệt kê các trang web trong quảng cáo của họ. Đến năm 1999, hầu hết mọi quốc gia đều có kết nối và gần một nửa người Mỹ và người dân ở một số quốc gia khác sử dụng Internet một cách thường xuyên. Tuy nhiên, trong suốt những năm 1990, "trực tuyến" đòi hỏi cấu hình phức tạp và truy cập Internet Dial-up là loại kết nối duy nhất có giá cả phải chăng của người dùng cá nhân.

Vào năm 1989, khoảng 15% tất cả các hộ gia đình ở Hoa Kỳ sở hữu một máy tính cá nhân, đến năm 2000, con số này lên tới 51%; đối với các hộ gia đình có trẻ em gần 30% sở hữu một máy tính vào năm 1989 và năm 2000 65% sở hữu một máy tính.

Thập niên 2000

Điện thoại di động đã dần trở nên phổ biến như máy tính vào đầu thập niên 2000, các rạp chiếu phim bắt đầu chiếu quảng cáo về việc mọi người nên để điện thoại ở chế độ im lặng khi xem phim. Chúng cũng trở nên tiên tiến hơn nhiều so với điện thoại chỉ có chức năng gọi điện hoặc chơi các trò chơi đơn giản của những năm 1990. Và chúng được sử dụng rộng rãi đầu thập niên 2000, khi nó trở thành một hiện tượng văn hóa.

Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã trở nên lan rộng toàn cầu trong thời gian này - sau khi cách mạng hóa xã hội ở các nước phát triển vào những năm 1990, cuộc cách mạng kỹ thuật số đã lan rộng đến đông đảo mọi người ở các nước đang phát triển vào những năm 2000.

Tại Việt Nam kết nối Internet dial-up đã xuất hiện từ khoảng năm 2002 và được rất nhiều người yêu thích.

Vào cuối năm 2005, dân số Internet đạt 1 tỷ và 3 tỷ người trên toàn thế giới đã sử dụng điện thoại di động vào cuối thập kỷ này. HDTV đã trở thành định dạng phát sóng truyền hình tiêu chuẩn ở nhiều nước vào cuối thập kỷ này.

Thập niên 2010

Vào năm 2012, hơn 2 tỷ người đã sử dụng Internet, gấp đôi lượng sử dụng vào năm 2007. Điện toán đám mây đã trở thành xu hướng vào đầu những năm 2010. Vào năm 2016, một nửa dân số thế giới đã được kết nối Internet và đến năm 2020, con số đó đã tăng lên 67%.

Sau 10 năm tồn tại ở Việt Nam, Internet dial-up chính thức bị khai tử vào ngày 15/7/2012. Đây là cột mốc đánh dấu sự đổi mới rất nhiều Internet tại Việt Nam đến tận sau này.== Vào cuối những năm 1980, chỉ có khoảng 1% thông tin công nghệ của thế giới được lưu trữ ở dạng số hóa. Con số này đã tăng lên 94% trong năm 2007 và hơn 99% năm 2014.

Người ta ước tính rằng khả năng lưu trữ thông tin của thế giới đã tăng từ 2,6 exabyte (được nén tối ưu) vào năm 1986, lên khoảng 5.000 exabyte vào năm 2014 (5 zettabyte). Cụm từ "Cư dân mạng" để chỉnh những người giáo tiếp với nhau trên mạng xã hội cũng từ đây mà dần trở nên quen thuộc hơn với nhiều người. Số lượng của những công dân tham gia internet cũng ngày một tăng.

SMAC (Social, Mobile, Analytics, Cloud) - điện toán đám mây: Không gian lưu trữ vô tận

Phương tiện truyền thông mạng xã hội - Social media đã giúp cho doanh nghiệp tiếp cận và tương tác với khách hàng theo một phương thức mới.

Công nghệ di động (Mobile) đã thay đổi cách thức con người giao tiếp với nhau, cũng như mua sắm và làm việc.

Big Data – dữ liệu lớn: "Khoáng sản" của ngành tiếp thị, truyền thông

Big data nhìn chung liên quan đến các tập dữ liệu có khối lượng lớn và phức tạp đến mức các phần mềm xử lý dữ liệu truyền thống không có khả năng thu thập, quản lý và xử lý dữ liệu trong một khoảng thời gian hợp lý. Những tập dữ liệu lớn này có thể bao gồm các dữ liệu có cấu trúc, không có cấu trúc và bán cấu trúc, mỗi tập có thể được khai thác để tìm hiểu insights.

Khái quát về sự chuyển biến của cách mạng kỹ thuật số đối với ngành truyền thông tiếp thị

Giai đoạn của kênh Traditional (2008-2012): Quyền lực trong tay các kênh chính thống

Ở giai đoạn này truyền hình lên ngôi khi là công cụ truyền thông hữu ích của các công ty bên cạnh một số các công cụ truyền thông truyền thống khác. Theo báo cáo thị trường quảng cáo năm 2011 của Kantar, tổng chi phí đầu tư cho quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng, bao gồm truyền hình, báo & tạp chí (giấy), đài phát thanh, OOH và Internet, đạt 16.357 tỷ đồng. Trong đó, khi nhắm đến đối tượng truyền thông "Mass", truyền hình và báo chí chính là lựa chọn ưu tiên nhất, với kinh phí lần lượt chiếm 80% và 14.28% trên tổng mức đầu tư cho toàn thị trường quảng cáo.

Trước thực trạng các thương hiệu vừa và nhỏ ngày càng thất thế, sự khởi đầu của Thời đại Thông tin (hay Thời đại Số/Thời đại Truyền thông mới) có liên quan trực tiếp đến Cách mạng Kỹ thuật số (Digital) là điều tất yếu nhằm lấy lại sự công bằng cho cuộc chơi.

Digital Level 1 (2011-2013): Những khái niệm sơ khai

Thuở ban đầu, những trang như Én Bạc, Rồng Bay, Vật Giá... đã đặt nền móng đầu tiên cho ngành thương mại điện tử Việt Nam. Đồng thời, những website tin tức kỳ cựu như VnExpress, 24h, Dantri, Vietnamnet... đã hình thành nên khái niệm booking trên Digital. Chắc hẳn, các thế hệ 8x, 9x đều biết đến Yahoo Messenger – gã khổng lồ về nền tảng chat, nơi các nhà quảng cáo có thể hiển thị Banner trên các khu vực cực kì sơ khai như Yahoo Insider.

Vì loại hình mua bán này còn rất mới mẻ, do đó các hình thức nhắm chọn (targeting) chỉ ở mức theo website hoặc theo các chuyên mục, và model banner cố định phổ biến nhất là CPD – Cost Per Duration (theo tuần hoặc tháng).

Theo sự phát triển của máy tính kỹ thuật số cá nhân, bộ vi xử lý MOS và chip bộ nhớ, với hiệu suất và lưu trữ tăng dần, đã cho phép công nghệ máy tính được nhúng vào một loạt các đối tượng từ máy ảnh đến máy nghe nhạc cá nhân. Sự phát triển của các công nghệ truyền dẫn bao gồm mạng máy tính, Internet và phát sóng kỹ thuật số. Sự thâm nhập xã hội của điện thoại 3G tăng theo cấp số nhân vào những năm 2000, cũng đóng một vai trò rất lớn trong cuộc cách mạng kỹ thuật số khi chúng đồng thời cung cấp giải trí, truyền thông và kết nối trực tuyến phổ biến.

Tác động kinh tế - xã hội

Các khía cạnh tích cực bao gồm sự kết nối với nhau nhiều hơn, giao tiếp dễ dàng hơn và sự phơi bày thông tin mà trong quá khứ có thể dễ dàng bị loại bỏ hơn bởi các chế độ toàn trị. Michio Kaku đã viết trong các cuốn sách Physics of the Future rằng sự thất bại của cuộc đảo chính Liên Xô năm 1991 phần lớn là do sự tồn tại của công nghệ như máy fax và máy tính đã tiết lộ thông tin mật.

Cuộc cách mạng năm 2011 được kích hoạt bởi công nghệ mạng xã hội và điện thoại thông minh. Tuy nhiên những cuộc cách mạng trong nhận thức này phần lớn không đạt được mục tiêu của họ vì các chính phủ Hồi giáo khó tính và ở Syria, một cuộc nội chiến đã hình thành trong trường hợp không có chế độ độc tài bị lật đổ.

Tác động kinh tế của cuộc cách mạng kỹ thuật số đã được mở rộng. Ví dụ, nếu không có World Wide Web (WWW), toàn cầu hóa và gia công phần mềm sẽ không khả thi như hiện nay. Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã thay đổi hoàn toàn cách các cá nhân và công ty tương tác. Các công ty nhỏ trong khu vực đã bất ngờ được tiếp cận với các thị trường lớn hơn nhiều. Các khái niệm như dịch vụ và sản xuất phần mềm theo yêu cầu và giảm nhanh chi phí công nghệ đã tạo ra những đổi mới có thể trong tất cả các khía cạnh của ngành công nghiệp và cuộc sống hàng ngày.

Sau những lo ngại ban đầu về nghịch lý năng suất công nghệ thông tin, bằng chứng cho thấy các công nghệ kỹ thuật số đã tăng đáng kể năng suất và hiệu suất của các doanh nghiệp.

Các tác động tiêu cực bao gồm quá tải thông tin, các cướp bóc trên Internet, các hình thức cô lập xã hội và bão hòa phương tiện truyền thông. Trong một cuộc thăm dò ý kiến ​​của các thành viên nổi tiếng của các phương tiện truyền thông quốc gia, 65% cho biết Internet đang gây tổn hại cho báo chí nhiều hơn là giúp đỡ bằng cách cho phép bất cứ ai dù nghiệp dư và không có kỹ năng trở thành nhà báo; làm cho thông tin trở nên không đáng tin cậy.

Trong một số trường hợp, việc sử dụng phổ biến các thiết bị kỹ thuật số cầm tay và máy tính liên quan đến công việc của nhân viên công ty để sử dụng email, nhắn tin tức thời, trò chơi máy tính thường làm giảm năng suất của các công ty đó. Do đó, máy tính cá nhân và các hoạt động kỹ thuật số không liên quan đến công việc khác tại nơi làm việc đã dẫn đến các hình thức xâm phạm quyền riêng tư mạnh mẽ hơn, chẳng hạn như các ứng dụng ghi thông tin và lọc thông tin (phần mềm gián điệp và kiểm soát nội dung).

Chia sẻ thông tin và quyền riêng tư

Quyền riêng tư trở thành mối quan tâm trong cuộc cách mạng kỹ thuật số. Khả năng lưu trữ và sử dụng một lượng lớn thông tin đa dạng tạo ra khả năng theo dõi các dữ liệu cá nhân như các hoạt động và sở thích. Những người Libertari và những người ủng hộ quyền riêng tư lo sợ về khả năng của một tương lai Orwellian rằng các cấu trúc quyền lực tập trung kiểm soát dân chúng thông qua giám sát tự động và giám sát thông tin cá nhân trong các chương trình như Information Awareness Office của CIA.  Những người ủng hộ người tiêu dùng và lao động phản đối khả năng hướng thị trường tới các cá nhân, phân biệt đối xử trong các quyết định tuyển dụng và cho vay, theo dõi xâm lấn hành vi và truyền thông của nhân viên và thường thu lợi từ thông tin cá nhân được chia sẻ không tự nguyện.

Internet, đặc biệt là WWW trong những năm 1990, mở ra con đường hoàn toàn mới để liên lạc và chia sẻ thông tin. Khả năng chia sẻ thông tin dễ dàng và nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu mang đến một cấp độ tự do ngôn luận hoàn toàn mới. Các cá nhân và tổ chức được phép tự do ngôn luận về bất kỳ chủ đề nào, cho khán giả toàn cầu, với chi phí thấp, đặc biệt là so với bất kỳ công nghệ truyền thông nào trước đây.

Các dự án hợp tác lớn có thể được nỗ lực (ví dụ: các dự án phần mềm nguồn mở, SETI @ home). Cộng đồng của những người có cùng chí hướng đã được hình thành (ví dụ MySpace, Tribe.net). Các công ty nhỏ trong khu vực được cấp quyền truy cập vào một thị trường lớn hơn.

Trong các trường hợp khác, các tổ chức xã hội và tôn giáo tìm thấy nhiều nội dung phản cảm, thậm chí nguy hiểm. Nhiều phụ huynh và các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, đã trở nên hoảng hốt vì nội dung khiêu dâm có thể được tiếp cận bởi trẻ vị thành niên. Trong các trường hợp khác, sự phổ biến thông tin về các chủ đề như khiêu dâm trẻ em, chế tạo bom, thực hiện các hành động khủng bố và các hoạt động bạo lực khác là đáng báo động đối với nhiều nhóm người khác nhau. Những lo ngại như vậy đã góp phần tranh luận về kiểm duyệt và quy định về WWW.

Các vấn đề về bản quyền và thương hiệu

Các vấn đề bản quyền và thương hiệu cũng trở nên vấn đề được quan tâm trong cuộc cách mạng kỹ thuật số. Việc sản xuất và phân phối các tác phẩm sao chép phổ biến đã bị ngăn cản đáng kể bởi luật sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong ngành công nghiệp âm nhạc, phim ảnh và truyền hình.

Cuộc cách mạng kỹ thuật số, đặc biệt là về quyền riêng tư, bản quyền, kiểm duyệt và chia sẻ thông tin, vẫn là một chủ đề gây tranh cãi. Khi cuộc cách mạng kỹ thuật số tiến triển, vẫn chưa rõ xã hội đã bị ảnh hưởng ở mức độ nào và sẽ bị thay đổi trong tương lai.

Mối quan tâm

Trong khi đã có những lợi ích to lớn cho xã hội từ cuộc cách mạng kỹ thuật số, đặc biệt là về khả năng tiếp cận thông tin, có một số mối lo ngại. Mở rộng sức mạnh của truyền thông và chia sẻ thông tin, tăng khả năng cho các công nghệ hiện có và sự ra đời của công nghệ mới mang đến nhiều cơ hội tiềm năng để khai thác. Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã giúp mở ra một kỷ nguyên mới của giám sát hàng loạt, tạo ra một loạt các vấn đề dân sự và nhân quyền mới. Độ tin cậy của dữ liệu trở thành một vấn đề vì thông tin có thể dễ dàng được sao chép, nhưng không dễ dàng xác minh. Cuộc cách mạng kỹ thuật số cho phép lưu trữ và theo dõi các sự kiện, bài báo, số liệu thống kê, cũng như các chi tiết vụn vặt không khả thi.

Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra cùng một khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Kết quả, đã kéo theo sự thay đổi cơ cấu của nền sản xuất xã hội cũng như những mối tương quan giữa các khu vực I (nông – lâm – thủy sản), II (công nghiệp và xây dựng) và III (dịch vụ) của nền sản xuất xã hội, làm thay đổi tận gốc các lực lượng sản xuất.

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cách mạng công nghiệp lần thứ hai** (1871-1914) là một giai đoạn công nghiệp hóa nhanh chóng và xảy ra nhiều sự tiêu chuẩn hóa, sản xuất hàng loạt và phát kiến khoa học từ
**Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3**, hay còn được gọi **Cách mạng kỹ thuật số** (), kỷ nguyên công nghệ thông tin, diễn ra từ những năm 1950 đến cuối những năm 1970, với
nguyễn công minh trí là người tạo ra **Công nghiệp 4.0**. Công nghiệp 4.0 tập trung vào công nghệ kỹ thuật số từ những thập kỷ gần đây lên một cấp độ hoàn toàn mới
Mô hình [[động cơ hơi nước của James Watt. Sự phát triển máy hơi nước khơi mào cho cuộc cách mạng công nghiệp Anh.]] **Cuộc cách mạng công nghiệp** hay còn gọi là **Cách mạng
nhỏ|Lược đồ khu vực [[Lưỡi liềm Màu mỡ khoảng năm 7500 trước Công nguyên với các di chỉ đồ đá mới Tiền đồ gốm được tô đỏ.]] **Cách mạng Đá mới** () hay **Cách mạng
**Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2** (); diễn ra từ năm 1945 đến năm 1950, là cuộc chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm tranh giành quyền kiểm soát Trung
**Cách mạng Tháng Mười**, còn được gọi là **Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại** trong các sử liệu Liên Xô; các tên gọi khác được sử dụng rộng rãi trong giới
Trong suốt 95 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân; khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công
Trong suốt 95 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân; khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công
**Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa III** () được tổ chức từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 4 năm 1982 tại thành phố Viêng Chăn. Đại hội có 228 đại biểu
thumb|Sau [[chiến tranh thế giới thứ hai, các công nghệ nông nghiệp mới được triển khai, bao gồm thuốc trừ sâu và phân bón cũng như các giống cây trồng mới cho năng suất cao,
nhỏ|430x430px|Tác động của công nghiệp hóa lên mức thu nhập của người dân từ năm 1500. Biểu đồ cho thấy rõ tổng sản lượng trong nước ở mỗi quốc gia **Công nghiệp hóa** là quá
**Chiến tranh Anh-Maratha lần thứ ba** (1817–1819) là cuộc xung đột cuối cùng và mang tính quyết định giữa Công ty Đông Ấn Anh (EIC) và Đế quốc Maratha ở Ấn Độ. Cuộc chiến tranh
**Cách mạng Hồi giáo** (hay còn được biết với tên **Cách mạng Iran** hoặc **Cách mạng Hồi giáo Iran**, Tiếng Ba Tư: , _Enghelābe Eslāmi_) là cuộc cách mạng đã biến Iran từ một chế
**Cách mạng Guatemala** (), cũng được gọi là **Thập kỷ xuân**, là một thời kỳ trong lịch sử Guatemala từ khi Jorge Ubico bị đảo chính vào năm 1944 đến khi Jacobo Árbenz bị đảo
**Cách mạng Ai Cập năm 1952** (), còn được gọi là **Cách mạng 23 tháng 7**, đánh dấu một giai đoạn biến đổi quan trọng ở Ai Cập, cả về chính trị và kinh tế
**Cách mạng Pháp**, sử liệu Marxist thường gọi là **Cách mạng tư sản Pháp**, là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Pháp vào cuối thế kỷ XVIII, diễn ra từ năm 1789 đến
**Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội** (chính tả cũ: Việt-Nam thanh-niên cách mệnh đồng-chí hội) là một tổ chức của Nguyễn Ái Quốc hoạt động chống lại thực dân Pháp tại Đông
**Đại Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản** (; thường gọi tắt là **Cách mạng Văn hóa** 文化革命, hay **Văn cách** 文革, _wéngé_) là một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa
**Cách mạng kỹ thuật quân sự** là bước nhảy vọt về chất trong quá trình phát triển các phương tiện kỹ thuật quân sự nhờ ứng dụng các thành tựu mới của khoa học và
**Cách mạng Dân tộc Indonesia** hoặc **Chiến tranh Độc lập Indonesia** là một xung đột vũ trang và đấu tranh ngoại giao giữa Indonesia và Đế quốc Hà Lan, và một cách mạng xã hội
**Ủy ban Cách mạng Lâm thời Ba Lan** (Tiếng Ba Lan: _Tymczasowy Komitet Rewolucyjny Polski_, viết tắt là _Polrewkom_, Tiếng Nga: _Польревком_) là một cơ quan chính quyền được thành lập bởi những người Bolshevik
**Trần Đình Long** (1 tháng 3 năm 1904 - 1945) là nhà hoạt động cách mạng trong phong trào cộng sản Việt Nam, là cố vấn của Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội trong Cách
**Cách mạng Cuba** (tiếng Tây Ban Nha: Revolución cubana) là một cuộc nổi dậy vũ trang được lãnh đạo bởi đảng cách mạng _Phong trào 26 tháng 7_ (viết tắt M-26-7) của Fidel Castro và
Ngành công nghiệp **anime** đã phát triển đáng kể trong những năm vừa qua, đặc biệt là ở bên ngoài Nhật Bản. Nó đã nhanh chóng lan truyền đến toàn thế giới và gia tăng
**Cách mạng Saur** (, ) (còn viết là **Cách mạng Sawr**) là sự kiện Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan (PDPA) tiếp quản quyền lực chính trị của chính phủ Afghanistan từ ngày 27 đến
**Tiền đề của Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga** - một tập hợp phức tạp các biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa trong và ngoài nước có mối
thumb|Nguyên bản của [[Quốc kì Đức: Cổ vũ cho cuộc cách mạng ở Berlin, ngày 19 tháng 3, 1848]] **Cách mạng 1848 – 1849** tại các bang nói tiếng Đức, giai đoạn mở đầu còn
Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số.Chuyển
**Cách mạng 1989**, hay còn được gọi là **Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu** (còn được gọi bằng nhiều tên gọi khác như là **Mùa
**Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội**, thường dược biết đến dưới tên giao dịch **Viettel** hay **Tập đoàn Viettel**, là một tập đoàn viễn thông và công nghệ Việt Nam được thành
**Đảng Nhân dân Cách mạng Lào** là đảng cầm quyền ở Lào theo Hiến pháp. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào chính thức thành lập vào ngày 22 tháng 3 năm 1955. Đảng đã lãnh
**Cuộc cách mạng Philippines** (tiếng Filipino: Himagsikang Pilipino), hay còn được gọi là **Chiến tranh Tagalog** (tiếng Tây Ban Nha: _Guerra Tagalog_) bởi người Tây Ban Nha, là một cuộc cách mạng và các cuộc
thumb|Những sinh viên tại Praha biểu tình (với [[Václav Havel ở giữa) kỷ niệm ngày Sinh viên Quốc tế, ngày 17 tháng 11 năm 1989]] nhỏ|Người dân Praha biểu tình tại Quảng trường Wenceslas trong
**Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất** (tiếng Trung: 第一次鸦片战争; bính âm: _Dìyīcì Yāpiàn Zhànzhēng_; tiếng Anh: _First Opium War_), còn được gọi là **Chiến tranh thuốc phiện lần 1** hay **Chiến tranh Anh-Thanh**,
**Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An** được thành lập tại Quyết định số 542/QĐ-TTg ngày 4/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ. ## Lịch sử hình thành và phát triển Trường Đại học
nhỏ|Tác phẩm _[[Khế ước xã hội_ (Du contrat social) của Jean-Jacques Rousseau]] **Nguyên nhân gây nên cuộc Cách mạng Pháp** bao gồm những yếu tố lịch sử quan trọng dẫn đến cuộc đại cách mạng
**Matthew Boulton** (; 03 tháng 9 năm 1728 - 17 tháng 8 năm 1809) là một nhà sản xuất và kinh doanh người Anh, đối tác của kỹ sư người Scotland - James Watt. Trong
thumb|Ước tính GDP bình quân đầu người của các quốc gia châu Âu và châu Á từ năm 1500-1950 với [[sức mua tương đương theo dollar quốc tế năm 1990 của nhà kinh tế học
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Cách mạng Tân Hợi** () còn được gọi là **Cách mạng Trung Quốc** hay **Cách mạng năm 1911** là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc do những người trí
nhỏ|Etruria Hall, ngôi nhà gia đình, được xây dựng năm 1768 17171717 bởi Joseph Pickford. Nó đã được khôi phục như là một phần của Lễ hội Vườn Stoke-on-Trent năm 1986 và hiện là một
**Cách mạng Quyền lực Nhân dân** (còn gọi là **Cách mạng EDSA** và **Cách mạng Philippines 1986**) là một loạt hành động thị uy của quần chúng tại Philippines bắt đầu vào năm 1983 và
**Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII**, tên chính thức là **Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII** là Đại hội đại biểu toàn quốc
**Cách mạng tháng Hai** (tiếng Nga: Февра́льская револю́ция, IPA: [fʲɪvˈralʲskəjə rʲɪvɐˈlʲutsɨjə], tr. Fevrálʹskaya revolyútsiya), được biết tới trong nền sử học Xô viết như là **Cách mạng tư sản tháng Hai ** (February Bourgeois Democratic
**Cách mạng Ai Cập năm 2011**, hay còn được gọi là **Cách mạng ngày 25 tháng 1** (tiếng Ả Rập: ثورة ٢٥ يناير, _Thawrat khamsa wa-ʿišrūn yanāyir_), bắt đầu vào ngày 25 tháng 1 năm
**Cách mạng Zanzibar** diễn ra vào năm 1964, kết quả là các nhà cách mạng người Phi địa phương phế truất quốc vương của Zanzibar và chính phủ có thành phần chủ yếu là người
Tổ chức của ngày mai sẽ khác về cơ bản so với tổ chức ngày nay. Những doanh nghiệp nhận thức được những thay đổi sắp tới có thể chuẩn bị tốt nhất và đạt
**Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa I** () được tổ chức từ ngày 22 tháng 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1955 tại tỉnh Hủa Phăn. Đại hội có 40 đại
**Cộng hòa Nhân dân Ba Lan** (1952–1989), trước đây là **Cộng hòa Ba Lan** (1944–1952), là một quốc gia ở Trung Âu tồn tại như tiền thân của Cộng hòa Ba Lan dân chủ hiện