✨Mông Cổ xâm lược Rus

Mông Cổ xâm lược Rus

Là một phần của Mông Cổ xâm lược Châu Âu, Đế chế Mông Cổ đã xâm chiếm Rus Kiev vào thế kỷ XIII, phá hủy nhiều thành phố, bao gồm Ryazan, Kolomna, Moskva, Vladimir và Kiev.

Chiến dịch được báo trước bởi trận sông Kalka vào tháng 5 năm 1223, dẫn tới chiến thắng của Mông Cổ đối với một số lực lượng của quốc gia của Rus'. Mông Cổ sau đó rút lui. Cuộc xâm lược toàn diện vào Rus do Batu Khan tiến hành từ năm 1237 đến năm 1240. Cuộc chinh phục vào châu Âu đã chấm dứt bởi quá trình tìm vị thủ lĩnh mới kế nhiệm chức vị khả hãn Mông Cổ sau cái chết của Ögedei Khan. Tất cả các nhà lãnh đạo của Rus đều bị buộc phải tuân thủ chế độ Mông Cổ và trở thành một phần của Hãn quốc Kim Trướng, một số trong đó kéo dài đến năm 1480.

Cuộc xâm chiếm, đã tạo điều kiện cho cuộc khởi đầu của sự tan rã của Rus Kiev vào thế kỷ XIII, làm gây ra những hậu quả không thể đếm được cho lịch sử Đông Âu, bao gồm sự phân chia dân tộc Slav Đông thành ba quốc gia riêng biệt ngày nay: Nga, Ukraina và Belarus, và sự nổi lên của Đại công quốc Moskva.

Cuộc xâm lược của người Mông Cổ trong lịch sử

thumb|left|Tranh minh họa trận Suzdal năm 1238 trong cuốn sách «Tiểu sử ». Vào thế kỷ XVIII. các nhà sử học Nga đã bắt đầu nghiên cứu chi tiết về cuộc xâm lược của Bạt Đô vào Rus. Nhà nghiên cứu đầu tiên mô tả chi tiết vấn đề cuộc xâm lược của người Tatar-Mông là . Tác phẩm «» của ông dẫn nguồn rất nhiều từ các biên niên sử cổ đại của Nga. Tác phẩm và lối viết sử của ông đã ảnh hưởng đến nhiều sử gia khác. Sử gia tiếp theo chú ý đến cuộc xâm lược là Nikolai Mikhailovich Karamzin. Tác phẩm của ông «» mô tả rất hay về cuộc chinh phục nước Nga của Bạt Đô. Karamzin đưa ra kết luận rằng chính cuộc xâm lược của người Mông Cổ đã khiến Nga tụt hậu so với các cường quốc hàng đầu châu Âu. Cũng chính ông là người đầu tiên xác định rõ ảnh hưởng của cuộc xâm lược đối với hướng phát triển của nước Nga mang tính bản sắc hóa .

Vào thế kỷ 19, chủ đề về chiến dịch của Batu chống lại Nga ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm. Năm 1823 P.N Naumov đề xuất thuật ngữ «Đế quốc Mông Cổ». vào nghiên cứu sử học . Năm 1826, Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia đã tổ chức một đại hội nghiên cứu về tác động của cuộc xâm lược đối với sự phát triển của nước Nga . Mặc dù thực tế là đại hội không bao giờ diễn ra nhưng cuộc thảo luận về vấn đề này sôi nổi trên báo chí. Trong những năm sau đó, các nhà sử học quan tâm nhiều đến các khía cạnh quân sự của cuộc xâm lược, đặc biệt là tổ chức và chiến thuật của quân Mông Cổ. Những vấn đề này đã được đề cập đến trong các tác phẩm như «Bàn về lý do nền giáo dục dân sự ở nhà nước Nga luôn trì trệ» của và «Về nghệ thuật chiến tranh và các cuộc chinh phạt của quân Mông Cổ» của xuất bản lần lượt vào năm 1832 và 1846. Giáo sư Đại học Kazan I. Berezin đã có đóng góp đáng kể trong việc nghiên cứu các nguồn tài liệu về cuộc xâm lược của người Mông Cổ, cũng như phát hiện nhiều nguồn tài liệu mà các sử gia Nga trước đây chưa biết đến. Trong các tác phẩm «Chiến tranh Rus-Mông lần I» và «Bạt Đô xâm lược Rus», ông đã dựa nhiều vào các tác gia phương Đông như Rashid al-Din Hamadani và . Trong thời kỳ này, một cuốn sách chi tiết khác m6 tả cuộc xâm lược cũng xuất hiện với sự biên soạn của . Trái ngược với lập luận của N.M. Karamzin và về tác động to lớn của cuộc xâm lược của Bạt Đô đối với đời sống dân sự của Nga, Solovyov tin rằng sự kiện này không có tác động quan trọng đến sự phát triển của các chính quốc Nga. Những quan điểm như vậy sau đó được các nhà sử học như Vasily Osipovich Klyuchevsky, Sergei Fedorovich Platonov, Mikhail Nikolaevich Pokrovsky, Alexander Evgenievich Presnyakov và những người khác ủng hộ . Giữa thế kỷ 19 trong sử học cũng xuất hiện cái gọi là «vấn đề Mông Cổ» - một trong những chủ đề chính của lịch sử các nhà nước Nga .

Bối cảnh

Người Mông Cổ đã có kế hoạch chinh phục Đông Âu từ rất lâu trước chiến dịch của Bạt Đô. Từ năm 1207 Thành Cát Tư Hãn cử con trai cả của mình là Truật Xích chinh phục các bộ lạc sống ở phía bắc sông Selenga và trong thung lũng Irtysh. Đồng thời, các vùng đất thuộc Đông Âu, vốn được lên kế hoạch chinh phục trong tương lai sẽ giao cho Truật Xích tiến quân. Tuy nhiên Thành Cát Tư Hãn đã qua đời nên ông không thể chứng kiến thành quả và sau đó Triết Biệt và Tốc Bát Đài chỉ huy ba mươi nghìn quân ​​Ngoại Kavkaz và Đông Nam Châu Âu năm 1222-1224 nhằm do thám, dù theo như sách «Truyền thuyết bí mật» và sử gia Rashid ad-Din cho rằng mục đích của chiến dịch này là hỗ trợ lực lượng của Truật Xích và Hốt Lý Lặc Thai đánh nước Cuman, Alan, Hungary và Rus Kiev đến năm 1235 sau đó cuộc xâm lược châu Âu lại tái diễn nhắm đến những mục tiêu tương tự chiến dịch trước. Trong khuôn khổ, vào ngày 31 tháng 5 năm 1223, Trận sông Kalka diễn ra với kết quả là quân Nga-Cuman thất bại thảm hại. Sau chiến dịch, người Mông Cổ đã thăm dò và nắm bắt được tương đối rõ địa hình để tiện chuẩn bị hoạt động quân sự cũng như đã làm quen với quân đội và công sự của Rus, đồng thời nhận được thông tin về tình hình nội bộ của các chính quốc Rus. Từ thảo nguyên Cuman, quân đội của Triết Biệt và Tốc Bát Đài tiến đánh Volga Bulgaria nhưng và phải quay về dưỡng sức ở Bắc Trung Á (Kazakhstan ngày nay) .

Sách «Truyền thuyết bí mật» khi viết về giai đoạn 1228-1229 nói rằng Oa Khoát Đài :...đã cử Bạt Đô, Buri, Mông Kha và nhiều hoàng thân khác cùng tham gia chiến dịch để giúp đỡ Tốc Bát Đài, vì Ba Đồ Tốc Bát Đài gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ từ các dân tộc bản địa. Thành Cát Tư Hãn ra lệnh ông phải chinh phục dân tộc Kanlin, Cuman, Bachzhigit, Orusut, , Sesut, Machzhar, Keshimir, Sergesut, Bular, Kelet (cuốn «Nguyên sử» của người Trung Quốc còn ghi thêm 1 dân tộc nữa tên là Ne-mi-ci) cũng như các thành phố bên kia sông Adil và Chzhayakh, như Meketmen, Kermen-Keibe và những thành phố khác ... Quân họ rất đông đảo, binh lính hùng dũng. Họ đối mặt với nhiều kẻ thù, người dân ở đó chống trả dữ dội. Đó là cơn thịnh nộ của những kẻ chấp nhận cái chết (ý nói quân Mông), tự trang bị gươm giáo cho mình. Người ta nói rằng những thanh kiếm của họ rất sắc bén».

Một bước tiến mới trong cuộc chinh phục Đông Âu là chiến dịch của Tốc Bát Đài và 30 nghìn quân của ông trên thảo nguyên Caspi tiến hành vào cuối những năm 1220. Biên niên sử của Nga ghi lại sự xuất hiện của người Mông Cổ trên Yaik vào năm 1229. Quân đội của Tốc Bát Đài đã áp sát các vệ đoàn của Saksin, Polovtsy và Bulgar trên Yaik, và sau đó đích thân tấn công tây nam của Bashkiria. Sau cuộc họp Hốt lý lặc thai năm 1229, quân của đại vương Truật Xích đã đến hỗ trợ Tốc Bát Đài. Các cuộc tấn công chung nhắm vào Cuman, vùng đất Bashkir, và từ năm 1232 vào Bulgars. Các cuộc tấn công của quân Mông Cổ trên các hướng này vẫn tiếp tục cho đến năm 1235. thumb|Bạt Đô trong một bức vẽ Trung Quốc vào thế kỷ 14 Năm 1235, một Hốt lý lặc thai khác được triệu tập. Lý do cho cuộc triệu tập là thiếu lực lượng của đại vương Truật Xích cho một cuộc tấn công quy mô lớn vào Đông Âu. Hốt lý lặc thai đã vạch ra một chiến dịch chung của Mông Cổ, trong đó quân của các đại vương khác cũng sẽ tham gia.

Tên các hoàng tử Bột Nhi Chỉ Cân tộc đã tham gia chiến dịch được ghi chép khá đầy đủ trong các tác phẩm như «Truyền thuyết bí mật», «Nguyên sử», «Tập sử» của nhà sử học Ba Tư Rashid ad-Din. Theo như các nguồn tài liệu, ngoài Bạt Đô thì những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn cũng tham gia chiến dịch như: con trai của Truật Xích là Oát Nhi Đáp, Tích Ban, Ngốc Hoa Thiếp Mộc Nhi và Biệt Nhi Ca, cháu nội của Sát Hợp Đài là Bất Lí và con trai Bái Đáp Lí, con trai của Oa Khoát Đài là Quý Do và Kadan, con trai của Đà Lôi là Mông Kha và Bát Xước, con trai của Thành Cát Tư Hãn là Khoát Liệt Kiên, cháu nội của anh Thành Cát Tư Hãn là Argasun. Theo nhà sử học Kargalov, mỗi hoàng tử Bột Nhi Chỉ Cân tộc lãnh đạo một hoặc nhiều quân đoàn Tumen. Ban đầu, chính Oa Khoát Đài dự định lãnh đạo chiến dịch Kipchak, nhưng Mông Kha can ngăn ông ta. Tầm quan trọng của các hoàng tử Bột Nhi Chỉ Cân tộc đối với cuộc chinh phục Rus được chứng minh bằng đoạn độc thoại của Oa Khoát Đài nói với Quý Do, người không hài lòng với quyền lãnh đạo của Bạt Đô.

Năm 1235 và đầu năm 1236, toàn quân đội tập hợp chuẩn bị cho một cuộc tấn công chinh phục các bộ lạc Bashkir, những kẻ cản đường quân đội Mông Cổ. Vào mùa thu năm 1236, quân Mông Cổ tập trung ở thảo nguyên Caspi dưới sự lãnh đạo chung của Bạt Đô, con trai của Truật Xích.

Đòn đánh đầu tiên của đại quân của các hoàng tử Bột Nhi Chỉ Cân tộc là tấn công Volga Bulgaria. Cho đến giữa những năm 1220, Mông Cổ thường xuyên xung đột với các chính quyền Vladimir-Suzdal và Muromo-Ryazan. Các bên tiến hành các chiến dịch, liên tục xảy ra các cuộc giao tranh và đa phần chiến thắng thuộc về người Rus. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của người Mông Cổ ở biên giới, người Bulgars sợ hãi và muốn chủ hòa nhưng được các hoàng tử Rus ủng hộ. Trong vài năm, người Rus và người Bulga đã bình thường hóa quan hệ, điều này cho phép người Volga Bulgaria dốc toàn lực để chuẩn bị đẩy lùi cuộc xâm lược được cho là của người Mông Cổ. Các thành lũy được tạo ra trong các khu rừng, bao phủ các thành phố chính, bản thân các thành phố đã được củng cố, và số lượng các đơn vị đồn trú tăng lên. Tuy nhiên, tất cả các biện pháp này đều vô ích - Volga Bulgaria đã bị đánh bại với tốc độ cực nhanh và hoàn toàn bị chinh phục vào mùa xuân năm 1237. Các biên niên sử của Rus và các nguồn phương đông đều nói rõ sự thất bại của đất nước bị hủy diệt. Hầu như tất cả các thành phố bị phá hủy và vùng nông thôn bị tàn phá.

Giai đoạn tiếp theo của chiến dịch là cuộc tấn công vào Cuman và Alan. Từ khu vực Hạ sông Volga, quân Mông Cổ tiến theo một mặt trận rộng lớn đến cửa Don, nơi diễn ra đợt tập trung quân tiếp theo. Cuộc tấn công kéo dài cho đến mùa thu năm 1237 và kết thúc với thất bại của quân Cuman và Alans. Sau đó, quân Mông Cổ chiếm các vùng đất của người Burtases, Moksha và Mordovia. Trận Zolotarevskoe ác liệt diễn ra gần ngã ba chiến lược sông Sura. Theo nhà sử học Kargalov, các cuộc chiến năm 1237 được thực hiện để tạo bàn đạp cho một chiến dịch chống lại Rus. Vào cuối năm đó, một đội quân Mông Cổ khổng lồ và biệt đoàn của Bạt Đô đã đóng quân ở biên giới Rus.

Công tác chuẩn bị cho chiến dịch mùa đông đánh Đông Bắc nước Nga của quân Mông Cổ bắt đầu vào mùa thu năm 1237. Quân Mông được tập hợp lại gần Voronezh cùng với những đoàn quân trước đó đã chiến đấu với Cuman và Alan cũng được kéo đến đó.

Trong các tài liệu lịch sử, có nhiều ý kiến cho rằng cuộc tấn công của người Mông Cổ-Tatars vào các thủ đô của Rus là một điều hoàn toàn bất ngờ. Tuy nhiên, thực tế là sau thất bại của quân đội Nga-Cuman trên sông Kalka vào năm 1223, người Mông Cổ-Tatars trở lại biên giới Rus vào năm 1229 và đến năm 1236 thì tiến hành chinh phục các nước láng giềng cho thấy rằng các công tước Rus đã lo sợ và chuẩn bị phòng thủ. Mối quan hệ chặt chẽ của người Bulgar với người Suzdal và tranh chấp về quyền kiểm soát các tuyến đường thương mại cũng như quyền của người thiểu số Mordovia, v.v., làn sóng tị nạn vào vùng đất Rus gồm những người chạy trốn khỏi quân Mông đã cung cấp thông tin về những kẻ chinh phục đáng sợ, Điều đó cũng cho thấy ít nhất cáccông tước Vladimir và Ryazan đã nhận thức rõ không chỉ về cuộc tấn công sắp xảy ra, mà còn về thời điểm bắt đầu của nó. Thực tế là các nước láng giềng phía Tây Rus đã biết về cuộc xâm lược sắp xảy ra thể hiện qua các bức thư báo cáo của tu sĩ truyền giáo người Hungary thuộc dòng Đa Minh Julian về việc chuẩn bị cho cuộc xâm lược Rus của ba phần tư quân đội Mông Cổ: :Nhiều người đã lan truyền cho các tín hữu và công tước Suzdal đã tiết lộ và khuyên tôi nên nói với vua Hungary rằng người Tatar đã ngày đêm tìm cách chiếm lấy vương quốc Hungary theo Thiên chúa giáo. Vì chúng có ý định đi chinh phục hết toàn bộ La Mã cũ và xa hơn nữa ... Bây giờ, ở biên giới Rus, chúng tôi đã biết được một sự thật chấn động rằng toàn bộ Mông quân đi đánh các nước phía Tây được chia thành. bốn phần. Một phần trải từ sông Etil (Volga) giáp biên giới với Rus đến rìa phía đông tiếp cận Suzdal. Một phần khác ở phía nam phụ trách quấy rối biên giới Ryazan, một công quốc Rus khác. Phần thứ ba đứng đối diện sông Don, gần lâu đài Oveheruch, cũng thuộc sở hữu cũa một công quốc Rus. Họđang gửi thông điệp cho người Rus, người Hungary và người Bulgaria, những kẻ thất bại rằng họ sẽ tấn công lúc đất đai, sông ngòi và đầm lầy đóng băng khi mùa đông tới.

Tuy nhiên, do sự mất đoàn kết, nếu không muốn nói là chia rẽ thù địch của các công quốc Rus khiến họ không những không thể phối hợp phòng thủ trên tất cả các vùng đất Rus mà còn không thể thực hiện đủ các biện pháp phòng thủ khẩn cấp tại chính quốc của mình.

Lực lượng của các bên

Quân đội Mông Cổ

left|thumb|Quân đội Mông Cổ trên đường hành quân. (tái hiện lại) thumb|Các chiến binh Mông Cổ được trang bị vũ khí bao vây. Hình từ cuốn sách "Tập sử" của [[Rashid al-Din Hamadani]] Số lượng chính xác quân Bạt Đô xâm lược các vùng khá mơ hồ. Đa số các nhà sử học Nga thời tiền cách mạng ước tính khoảng 300.000 binh sĩ còn nếu tính thêm dân bình và người bản xứ bị bắt tù thì lên tới 500.000 người. Các nhà sử học Liên Xô cũng đưa ra những ước tính tương tự. Các sách sử cũ của Nga và Arrmenia không đưa ra ước tính chính xác chỉ cho biết quân số của quân đội Mông Cổ rất đông. Trong khi đó sách sử xưa châu Âu đưa ra các con số ước tính khác. Plano Carpini ước tính 600.000 quân tham gia bao vây Kiev và nhà biên niên sử Hungary Simon xứ Kéza ước tính nửa triệu người Mông Cổ xâm lược Hungary. Nhà sử học Ba Tư Rashid al-Din Hamadani thì cho con số là 140.000 nhưng chưa tính những người phụ thuộc.

Trong giới sử học ngày nay thì vấn đề con số vẫn còn gây tranh cãi. Các nhà nghiên cứu khác nhau đưa ra những con số không giống nhau:

  • 120-140 nghìn binh sĩ theo Khrapachevsky
  • Nhà sử học V.V Kargalov viết: “Con số 300 nghìn người của các nhà sử học thời tiền cách mạng là sai lầm và thổi phồng ... Tôi cho rằng tổng quân số của quân đội Mông Cổ-Tatar chuẩn bị cho một chiến dịch chống lại quân Rus ước chừng ở mức 120-140 nghìn.
  • Nhà sử học Hà Lan Leo De Hartog ước tính quân số có thể lên tới 120 nghìn.
  • N. Ts. Minkuev ước tính con số là 139 nghìn.
  • Georgy Vladimirovich Vernadsky ước tính quân số nòng cốt của Mông Cổ là khoảng 50 nghìn người nhưng nếu tính luôn các chiến binh Thổ thì khoảng 140 nghìn. Tuy nhiên, ông lưu ý rằng do điều kiện khí hậu phức tạp vào thế kỷ 13 ở Rus gây khó khăn cho công tác hậu cần, số lượng quân tập trung tại một điểmkhông thể quá 50 nghìn
  • Lev Nikolaevich Gumilyov ước tính số lượng binh lính là 30 - 40 nghìn người. Gumilyov quả quyết cho rằng quân Mông Cổ và các đội quân kỵ binh phụ thuộc khác mang theo ít nhất 100 nghìn con ngựa. Theo Gumilov, bản thân Chiến dịch Đại Tây là một cuộc đột kích của kỵ binh và chiến dịch tới Nga chỉ là một cuộc đột kích chứ không phải là một cuộc chinh phục.

Các chiến thuật của người Mông Cổ có tính chất tấn công chủ động rõ rệt. Họ tìm cách giáng những đòn nhanh và mạnh vào chỗ sơ hở của kẻ thù làm họ bất ngờ và làm mất tổ chức và chia rẽ hàng ngũ của đcịch. Bất cứ khi nào có thể, Mông quân tránh các cuộc đối đầu lớn trực diện, đập tan kẻ thù từng phần, khiến địch kiệt sức bằng các cuộc giao tranh liên tục và các cuộc tấn công bất ngờ. Trong trận chiến, quân Mông Cổ xếp thành nhiều hàng, kỵ binh hạng nặng đứng phía sau còn ở hàng ngũ phía trước là đội quân gồm tù binh và các binh lính trang bị vũ khí hạng nhẹ. Đầu tiên Mông quân ném tên nhằm làm rối loạn hàng ngũ của kẻ thù. Họ tìm cách đột phá mặt trận của địch bằng các đòn đánh bất ngờ vào nhiều bộ phận, sử dụng rộng rãi các đòn đánh bên sườn, cánh và phía sau.

Điểm mạnh của quân đội Mông Cổ là liên tục nắm thế chủ động trong trận chiến. Các hãn, tướng lĩnh và chỉ huy không chiến đấu cùng với binh lính bình thường mà đứng ở sau đội hình và quan sát từ trên cao, chỉ đạo việc di chuyển của quân bằng cờ hiệu, ánh sáng và tín hiệu khói cũng như tín hiệu của ống và trống). Theo "Truyện ...", Kolovrat đã đột kích quân Mông Cổ ở Suzdal, thành phố đầu tiên mà quân Mông Cổ tiêu diệt trong chiến dịch Moscow bắt đầu vào ngày 15 tháng 1.

Thời điểm chính xác Bạt Đô đến Kolomna vẫn chưa rõ ràng. Theo V.V. Kargalov , Bạt Đô đến vao ngày 10 tháng 1 năm 1238 theo con đường dọc theo bờ sông Oka và sau đó dọc theo sông Moskva vào sâu trong công quốc Vladimir-Suzdal - đây là con đường duy nhất có thể đi qua đối với lượng lớn kỵ binh, còn con đường qua vùng đất thấp Meshchera thì quá khó chịu. Do đó, Kolomna là một pháo đài quan trọng và chính công tước Vladimir là Yuri Vsevolodovich đã tập kết quân đội ở đây. Con trai cả của ông là Vsevolod, người đã đến Kolomna cùng những người dân khốn khổ và thống tướng Eremey Glebovich dẫn đầu quân Vladimir. Tàn dư của quân Ryazan do Roman Ingvarevich chỉ huy và các trung đoàn Novgorod cũng đến thành phố.. Voivode Eremey và Công tước Roman dẫn đầu trung đoàn cận vệ. Người Rus đã chiến đấu trong hoàn cảnh bị bao vây, tuy nhiên, người ta biết rằng một trong những hoàng thân Bột Nhĩ Chỉ Căn tộc, vừa có vai trò quan trọng trong quân đội vừa là con trai út của Thành Cát Tư Hãn tên là Khoát Liệt Kiên tử trận. Điều này khiến cho rằng tinh thần của quân đội Mông Cổ hơi giảm sút và người Nga đã tận dụng nó để cố gắng đột phá đến hậu phương của kẻ thù. Trận bao vây cuối cùng diễn ra tại Nadolb (công sự phòng thủ Kolomna). Voivode Eremey và Công tước Roman Ingvarevich tử trận, Công tước Vsevolod và vài chục tinh binh đã trốn thoát được.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Là một phần của Mông Cổ xâm lược Châu Âu, Đế chế Mông Cổ đã xâm chiếm Rus Kiev vào thế kỷ XIII, phá hủy nhiều thành phố, bao gồm Ryazan, Kolomna, Moskva, Vladimir và
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
Đây là **danh sách các cuộc xâm lược** theo thứ tự thời gian. ## 2000–nay ## 1946 - 1999 * 1999: Hoa Kỳ xâm lược Panama * 1999: NATO ném bom Cộng hòa Liên bang
**Cuộc xâm lược Khwarezmia** bắt đầu từ 1219 đến 1221 đánh dấu điểm khởi đầu của quá trình người Mông Cổ chinh phục các nhà nước Hồi giáo. Sự bành trướng của Mông Cổ cuối
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Kiev Rus'**, còn gọi là **Kyiv Rus'** (, hoặc ; ), là một nhà nước và về sau là một hỗn hợp các thân vương quốc tại Đông và Bắc Âu từ cuối thế kỷ
**Ukraina** (phát âm tiếng Việt: _U-crai-na_; , ) là một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu, giáp với Nga về phía Đông, Belarus về phía Bắc, Ba Lan, Slovakia và Hungary về phía Tây,
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
Nội **Thân vương quốc Kiev** (, , ) là một nhà nước Đông Slav thời Trung cổ, nằm tại khu vực miền trung của Ukraina ngày nay, xung quanh thành phố Kiev (Kyiv). Thân vương
**Biệt Nhi Ca Hãn** (1208 - 1266) (**Berke** hay **Birkai**; , ) là một tướng lĩnh Mông Cổ, khả hãn Kim Trướng hãn quốc, và cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Biệt Nhi Ca
**Severia** hoặc **Siveria** (, , hay , chuyển tự _Siveria_ hay _Sivershchyna_) là một khu vực lịch sử tại phía tây nam Nga, phía bắc Ukraina, và phía đông Belarus hiện nay. Bộ phận lớn
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
phải|nhỏ|310x310px|Thân vương quốc Galicia-Volyn trên bản đồ Đông Âu **Thân vương quốc Galicia-Volyn** (1199–1392) (tiếng Nga: _Га́лицко-Волы́нское кня́жество_, , , tiếng Ukraina: _Галицько-Волинське князівство_) là một Thân vương quốc Nga phía tây nam dưới thời
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng
**Hãn quốc Kim Trướng** là một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá, được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược
**Trận sông Kalka** (, ) diễn ra vào ngày 31 tháng 5 năm 1223 giữa quân Mông Cổ (Triết Biệt và Tốc Bất Đài chỉ huy) và Kiev, Galich, cùng một số thân vương quốc
**Thân vương quốc Halych** (; ), hay **Thân vương quốc Rus Halych**, là một thân vương quốc Đông Slav thời trung cổ, là một trong những nhà nước khu vực chính yếu thuộc phạm vi
**Thân vương quốc Turov**, còn gọi là **Thân vương quốc Turov và Pinsk** (, , ) hoặc **Rus' Turov**, là một thân vương quốc Đông Slav thời trung cổ và một phân vùng quan trọng
thumb|upright=1.4|Đất Chelm (đỏ tía) trên bản đồ biến hóa lãnh thổ Ba Lan, 1619–1939. **Đất Chełm** () là một khu vực của Vương quốc Ba Lan và sau này là của Thịnh vượng chung Ba
**Kyiv** (, ), cũng được biết tới với tên từ tiếng Nga là **Kiev** (Ки́ев), là thủ đô và là thành phố lớn nhất nước Ukraina. Thành phố tọa lạc tại bắc trung bộ của
**Năm 1239** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện *20 tháng 3 - Đức Giáo hoàng Gregory IX **excommunicates** Frederick II, Hoàng đế La Mã Thần thánh. *Frederick II, Hoàng đế La Mã
thumb|upright=1.25|Bản đồ Cánh đồng hoang thế kỷ 17 thumb|[[Cumania|Bang liên Cuman–Kipchak tại Á-Âu khoảng 1200]] thumb|Delineatio Generalis Camporum Desertorum vulgo Ukraina (Phác họa tổng thể các cánh đồng hoang vu thường thấy Ukraina) **Cánh đồng
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
**Quan hệ Nga–Ukraina** chuyển thành quan hệ liên quốc gia sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Quan hệ ngoại giao giữa Liên bang Nga và Ukraina độc lập được thiết lập vào
thumb|Các khu định cư cổ đại tại Krym và khu vực xung quanh thumb|Đồng xu từ [[Chersonesus biểu thị Artemis, hươu, bò, dùi cui và bao đựng tên ()]] Lịch sử thành văn của bán
Hãn **Bạt Đô** (, , ) (khoảng 1205–1255) là một hãn Mông Cổ và đồng thời là người sáng lập ra Hãn quốc Kim Trướng. Bạt Đô là con trai của hãn Truật Xích và
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
Kipchak (Cuman) trên bản đồ thế giới Liên minh Cuman-Kipchak khoảng năm 1200 **Người Cuman** hay **Người Khâm Sát** (Ngữ hệ Turk: kuman, tiếng Hungary: kunok, tiếng Hy Lạp: Κο (υ) μάνοι, Ko (u) manoi,
nhỏ|Vị trí _Polocensis Ducatus_ trên bản đồ Litva của [[Gerardus Mercator.]] **Công quốc Polotsk** (; ; ), còn được gọi là **Polotsk Rus **', là một công quốc thời Trung cổ của người Slav Đông.
**Tốc Bất Đài** (tiếng Mông Cổ: _Sübügätäi_ or _Sübü'ätäi_; chữ Hán: 速不台, phiên âm: **Subetei**, **Subetai**, **Subotai**, **Tsubotai**, **Tsubetei**, **Tsubatai**; , _Sübeedei_; 1176–1248) là một danh tướng Mông Cổ bách chiến bách thắng dưới trướng
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Triết Biệt** (Hán Tự: 哲別; _Jebe_ hay _Jebei_, tiếng Mông Cổ: ᠵᠡᠪᠡ; phiên âm Cyrillic tiếng Mông Cổ: Зэв, Zev) hay **Giả Biệt** (者别) (sinh _chưa rõ_ - mất 1225) là một trong những viên
**Rurik** (còn gọi là **Riurik**; Tiếng Slav Giáo hội cổ _Rjurikŭ_, từ Tiếng Bắc Âu cổ _Hrøríkʀ_; 830 – 879), theo cuốn _Biên niên sử sơ khởi_ thế kỷ 12, là một thủ lĩnh người
**Thân vương quốc Yaroslavl** (tiếng Nga: Ярославское княжество, chuyển tự Yaroslavskoye knyazhestvo) là một Thân vương quốc của người Rus' với thủ phủ đặt tại thành phố Yaroslavl. Nó tồn tại từ năm 1218 cho
**Thân vương quốc Murom** (tiếng Nga: Муромское княжество) là một lãnh địa của người Rus' thời trung cổ có thủ phủ đặt tại thành phố Murom, nay thuộc tỉnh Vladimir, Nga. Murom nằm trong một
Một vị quan _Darughachi_ từ [[Hãn quốc Kim Trướng đến một thị trấn của Rus để thu thuế.]] **Darughachi**, hay **Đạt-lỗ-hoa-xích** (chữ Hán: _达鲁花赤_), trong lịch sử ban đầu mang ý nghĩa là một chức
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Lịch sử của Bulgaria** có thể được bắt nguồn từ các khu định cư đầu tiên trên vùng đất của Bulgaria hiện đại cho đến khi hình thành quốc gia và bao gồm lịch sử
**Người Scythia** hay **người Scyth** là một dân tộc Iran bao gồm những người chăn thả gia súc, sống du mục, cưỡi ngựa đã thống trị vùng thảo nguyên Hắc Hải trong suốt thời kỳ
**Đế quốc Bulgaria thứ nhất** (, Latin hoá: _blŭgarĭsko tsěsarǐstvije_ ) () là một nhà nước Bulgaria thời trung cổ được thành lập ở phía đông bắc bán đảo Balkan năm 680 bởi người Bunga,
**Đệ Nhị Đế quốc Bulgaria** (; ) là thời kỳ lịch sử của Bulgaria kéo dài từ năm 1185 đến 1396. Đây là nhà nước kế thừa Đế quốc Bulgaria thứ nhất, nhà nước này
**Thân vương quốc Beloozero** (tiếng Nga: Белозерское княжество) là một Thân vương quốc của người Rus', phát triển rực rỡ từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV ở miền Bắc nước Nga. Về mặt
nhỏ|296x296px| Tranh khảm Byzantine là một trong những tác phẩm lừng danh còn sót lại của [[Hagia Sophia ở Constantinople - chân dung của Christ Pantocrator trên các bức tường của phòng trưng bày phương
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
**Tỉnh Gilan** (tiếng Ba Tư: گيلان Gilan) là một trong những tỉnh của Iran. Tỉnh nằm dọc theo biển Caspi, ở phía tây của tỉnh Mazandaran, phía đông của tỉnh Ardabil, phía bắc các tỉnh
**Người Ukraina** (, ) là một dân tộc Đông Slav bản địa tại Ukraina. Bản ngữ của người Ukraina là tiếng Ukraina. Đa số người Ukraina là tín đồ Chính thống giáo Đông phương, một
**Belarus** (phiên âm: "Bê-la-rút", ; , tr. **', , tiếng Nga: Беларусь, Белоруссия, _Belarus_, _Belorussiya_,) tên chính thức là **Cộng hòa Belarus''' (tiếng Belarus: Рэспубліка Беларусь, tiếng Nga: Республика Беларусь), là quốc gia không giáp