✨Đất Chełm

Đất Chełm

thumb|upright=1.4|Đất Chelm (đỏ tía) trên bản đồ biến hóa lãnh thổ Ba Lan, 1619–1939.

Đất Chełm () là một khu vực của Vương quốc Ba Lan và sau này là của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Ngày nay, khu vực này nằm trong các quốc gia Ba Lan, Ukraina và Belarus. Đây là một phần tách rời của tỉnh Ruthenia, được tách khỏi phần chính của tỉnh này bởi tỉnh Bełz. Thị trấn quan trọng nhất của khu vực là Chełm. Trong Thịnh vượng chung, Đất Chełm được hưởng một địa vị đặc biệt; một số tài liệu mô tả nó như một thực thể riêng biệt - tỉnh Chełm (tiếng Latinh: Palatinatus Chelmensis).

Lịch sử

Lúc đầu, Đất Chełm là nơi sinh sống của bộ lạc Tây Slav Lędzianie. Vào năm 981, người cai trị Kiev Rus' là Vladimir Vĩ đại đã chinh phục lãnh thổ này. Vào thời điểm này, theo nhà sử học Ba Lan Ryszard Orłowski, người cai trị Kiev Rus đã tái định cư người Ba Lan vào Rus, đồng hóa họ và đưa người Ruthenia đến những vùng đất này. thumb|Huy hiệu Đất Chełm trong Recueil d'armoiries polonaises thumb|Huy hiệu Đất Chełm theo [[Kasper Niesiecki]] Sau một số cuộc xung đột, vào khoảng năm 1240 Quốc vương Danylo của Galicia biến Chełm thành thủ phủ của một giáo phận Chính thống giáo, khiến thị trấn phát triển nhanh chóng. Sau khi Mông Cổ xâm lược Rus, khiến các quốc gia Ruthenia suy yếu, một cường quốc mới ở Đông Âu là Đại công quốc Litva chiếm đóng Chełm. Năm 1340, thị trấn bị sát nhập bởi Quốc vương Ba Lan Kazimierz Wielki, cùng với Belz, Ruthenia Đỏ và Podolia. Lúc đầu, Đất Chełm được thống nhất với Đất Belz, nhưng vào năm 1387, Quốc vương Władysław Jagiełło trao Belz làm thái ấp cho Công tước Siemowit xứ Mazowsze, trong khi Chełm trực tiếp bị sáp nhập vào lãnh địa hoàng gia Ba Lan. Các nguồn cũ hơn cho rằng Đất Chełm đã trở thành một phần của tỉnh Ruthenia vào thời điểm nó được thành lập vào năm 1434, nhưng theo nghiên cứu mới, nó vẫn là một đơn vị hành chính độc lập, có sejmik riêng biệt, cho đến đầu thế kỷ 16.

Lúc đầu, Đất Chełm bao gồm huyện Chełm và huyện Krasnystaw, nhưng vào năm 1392, lãnh thổ được mở rộng ra khu vực Hrubieszow trước đây thuộc về Đất Belz. Hơn nữa, vào những năm 1430, Đất Chełm được mở rộng thêm các khu vực rộng lớn ở phía đông sông Bug, là các huyện Ratno và Luboml. Nhìn chung, tổng diện tích của khu vực là khoảng 10.000 km², giữ nguyên hình dạng cho đến khi Ba Lan bị phân chia lần đầu (1772).

Nhà sử học và dân tộc học người Ba Lan Zygmunt Gloger đã viết vào thế kỷ 19 rằng Đất Chełm là một vùng đất tách rời của tỉnh Ruthenia, bị tỉnh Belz ngăn cách hoàn toàn với nó. Nghiên cứu mới tuyên bố rằng trong khu vực Rừng Solska có dân cư thưa thớt, Đất Chełm có thể giáp với Đất Przemysl của tỉnh Ruthenia. Sông Bug chia Đất Chełm thành hai phần không bằng nhau; hai huyện phía đông nhỏ hơn, dân cư thưa thớt hơn, là nguồn của sông Prypec, cũng như một số hồ và đầm lầy của Polesie.

Vào thế kỷ 15, Đất Chełm được chia thành các huyện sau: Chełm, Krasnystaw, Hrubieszow, Luboml và Ratno. Năm 1465, huyện Hrubieszow được sáp nhập vào huyện Chełm, và vào khoảng năm 1469, huyện Chełm sáp nhập các huyện Luboml và Ratno. Sau những thay đổi này, Đất Chełm được chia thành hai huyện: Chełm (diện tích: 7.900 km²) và Krasnystaw (diện tích: 2.000 km²). Hơn nữa, ở góc tây nam của huyện Krasnystaw là huyện Szczebrzeszyn tư hữu, một số phần của Đất Chełm cũng thuộc về lãnh địa kế tập gia đình Zamoyski.

Trong Thịnh vượng chung Ba Lan–Litva, hầu hết cư dân ở phần phía đông của Đất Chełm đều có nguồn gốc Ruthenia trong khi phần lớn người dân tộc Ba Lan sống ở khu vực phía tây. Đất Chełm cũng có các dân tộc thiểu số Do Thái, Armenia và Wallachia. Vào nửa sau của thế kỷ 16, dân số của Đất Chełm là khoảng 67.000. Năm 1636, dân số tăng lên 125.000 người, nhưng sau các cuộc chiến tranh vào những năm 1650, chẳng hạn như cuộc xâm lược của Thụy Điển vào Ba Lan, dân số giảm xuống còn xấp xỉ 100.000. Năm 1667, có 16 thị trấn và 260 làng ở huyện Chełm, trong khi ở huyện Krasnystaw có 7 thị trấn và 167 làng.

Năm 1772, Đế chế Habsburg sáp nhập phần phía nam của Đất Chełm, cùng với thị trấn Zamość. Do phân chia Ba Lan lần thứ nhất, gần như toàn bộ tỉnh Ruthenia trở thành một phần của Galicia thuộc Áo và Đất Chełm trở thành một thực thể riêng biệt, vào năm 1793 được chuyển thành tỉnh Chełm. Sau lần phân chia Ba Lan thứ ba (1795), tỉnh Chełm được phân chia giữa Áo (là một phần của Tây Galicia) và Đế quốc Nga. Điều này có nghĩa là Đất Chełm ở hình dạng ban đầu đã không còn tồn tại. Hiện tại, Đất Chełm lịch sử thuộc về ba quốc gia – Ba Lan, Ukraina và Belarus.

Image:Bug w Krylowie widok z ruin zamku.JPG |sông Bug Image:Wieża w Stołpiu.jpg |Stołpie Image:POL Church of St. Mary in Chełm (7a).JPG |Gord (Chełm) Image:Dzwonnica i cerkiew w Wojsławicach,woj.lubelskie,pow.chełmski,gm.Wojsławice.jpg |Wojsławice Image:Dubienka cerkiew ewoj.jpg |Dubienka Image:Ethnic composition of Kholmshchyna, Rittikh, 1875-en.svg|Một mảnh bản đồ dân tộc học của Aleksandr Rittikh với thành phần dân tộc của Kholmshchyna, 1875
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|upright=1.4|Đất Chelm (đỏ tía) trên bản đồ biến hóa lãnh thổ Ba Lan, 1619–1939. **Đất Chełm** () là một khu vực của Vương quốc Ba Lan và sau này là của Thịnh vượng chung Ba
**Bảo tàng Vùng đất Chełm Wiktor Ambroziewicz ở Chełm** (tiếng Ba Lan: _Muzeum Ziemi Chełmskiej im. Wiktora Ambroziewicza w Chełmie_) là một bảo tàng tọa lạc tại Chełm, tỉnh Lubelskie ở đông-nam Ba Lan. Trụ
nhỏ|Bên trong hầm đá phấn Các **đường hầm đá phấn Chełm** (tiếng Ba Lan: _Chełmskie podziemia kredowe_) là một hệ thống các đường hầm đào vào đá phấn dưới lòng thành phố Chełm ở miền
**Tỉnh Ruthenia** (tiếng Latin: _Palatinatus russiae_, tiếng Ba Lan: _Województwo ruskie_, tiếng Ukraina: _Руське воєводство_, Latinh hóa: _Ruske voievodstvo_), còn gọi là tỉnh Rus’, là một tỉnh của Vương quốc Ba Lan từ năm 1434
**Ruthenia Đỏ**, hay ** Rus' Đỏ, Hồng Nga, Nga Đỏ** (; __; ; ), là một thuật ngữ được sử dụng từ thời Trung cổ để chỉ các thân vương quốc phía tây nam của
**Tỉnh Bełz** (, ) là một đơn vị hành chính và chính quyền địa phương tại Ba Lan từ năm 1462 đến Phân chia Ba Lan năm 1772–1795. Cùng với tỉnh Ruthenia, khu vực là
**Giáo hội Chính thống giáo Độc lập Ba Lan** (), thường được biết đến là **Giáo hội Chính thống giáo Ba Lan**, hoặc **Giáo hội (Chính thống giáo) Ba Lan** là một trong những Giáo
**Nikolay Petrovich Fyodorov** (; 1915-1944) là một Thiếu tá Hồng quân Liên Xô, chỉ huy đội du kích trinh sát và phá hoại hoạt động trên lãnh thổ của Volyn và Ba Lan bị Đức
**Ottokar Theobald Otto Maria _Graf_ Czernin von und zu Chudenitz** (; 26 tháng 9 năm 1872 – 4 tháng 4 năm 1932) là một nhà ngoại giao và chính khách Áo-Hung trong Thế chiến I,
**Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan** () là một tổ chức yêu nước chống phát xít Đức của Ba Lan được thành lập vào ngày 21 tháng 7 năm 1944 ở Chełm. Nó
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
**Tỉnh Kholm** hay **tỉnh Chełm** (; ; ) là một đơn vị hành chính (guberniya) của Đế quốc Nga. Thủ phủ của tỉnh là Chełm (Kholm). Tỉnh được tạo ra từ các phần phía đông
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Treblinka** () là một trại hủy diệt do Đức Quốc xã dựng lên trên vùng lãnh thổ Ba Lan chiếm đóng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Vị trí của nó ở gần ngôi
**Bohdan Zynovii Mykhailovych Khmelnytskyi** (tiếng Ruthenia: Ѕѣнові Богданъ Хмелнiцкiи; ; 6 tháng 8 năm 1657) là một quý tộc Ruthenia và chỉ huy quân sự của người Cossack Ukraina với tư cách Hetman của Quân
nhỏ|Lajos I khi vừa mới chào đời, theo cuốn _[[Illuminated Chronicle_.]] **Quốc vương Lajos I của Hungary** (; 5/3/1326 – 10/9/1382), còn gọi là **Lajos Vĩ đại**, **Lajos Đại đế** (; ; ) hay **Lajos
**Quốc gia hetman Cossack** (; , hay _Nhà nước Cossack_), tên chính thức là **Quân đoàn Zaporizhia** (; ), là một nhà nước của người Cossack nằm tại Trung Ukraina. Nhà nước này tồn tại
**Khởi nghĩa Khmelnytsky**, còn gọi là **Chiến tranh Cossack–Ba Lan**, **Khởi nghĩa Chmielnicki**, **cuộc nổi dậy Khmelnytsky**, là một cuộc nổi loạn của người Cossack diễn ra từ năm 1648 đến năm 1657 trên các
nhỏ|Bản đồ các khu vực địa lý của Ba Lan, phân chia các khu vực theo từng màu khác nhau nhỏ|Bản đồ đặc điểm tự nhiên trên nền các dạng địa hình và các khu
**Volhynia** (còn viết là **Volynia**) (, , ), là một khu vực lịch sử tại Trung và Đông Âu, giữa miền đông nam Ba Lan, miền tây nam Belarus và miền tây Ukraina. Ranh giới
**Tây Ukraina** () là một thuật ngữ địa lý và lịch sử tương đối được dùng để chỉ các vùng lãnh thổ phía tây của Ukraina. Thành phố lớn nhất là Lviv (72,5 vạn dân).
Các **lâu đài sông Dunajec** là một chuỗi gồm mười ba lâu đài thời trung cổ (một số không còn tồn tại nữa), được xây dựng ở phía nam Lesser Poland, Ba Lan, dọc theo
**Sobibór** (, or **_Sobibor_**) là một trại hủy diệt của Đức Quốc xã nằm ở vùng ngoại ô của làng Sobibor ở vùng lãnh thổ Ba Lan bị chiếm đóng của General Government trong Thế
**Przemsza** () là một con sông ở phía nam Ba Lan, một nhánh của Vistula. Theo lý thuyết, nó bắt nguồn từ hợp lưu của dòng sông Đen () Przemsza và Przemsza Trắng (_Biała_), giữa
**Vùng cao Lublin** () là một khu vực địa lý ở phía đông nam Ba Lan, nằm ở Lublin Voivodeship, giữa các con sông Vistula và Bug, xung quanh thành phố Lublin. Diện tích của
**Chiến dịch tấn công Bug** là một trong 3 chiến dịch quân sự do khối Liên minh Trung tâm tổ chức nhằm vào quân đội Nga vào cuối năm 1915 trên Mặt trận phía Đông
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Religie_w_I_Rz-plitej_1573.svg|nhỏ|Bản đồ thể hiện tình hình tôn giáo tại Liên bang Ba Lan và Lietuva vào năm 1573 **Liên hiệp Brest** là một sự kiện diễn ra từ năm 1595–1596, theo đó các Giáo hội
**Mykhailo Serhiiovych Hrushevsky** (; – 24 tháng 11 năm 1934) là một học giả, chính trị gia, nhà sử học và chính khách người Ukraina, một trong những nhân vật quan trọng nhất của cuộc
**Trận Komarów** (Tiếng Đức: Schlacht von Komarów; Tiếng Nga: Битва при Комарове) là một trận đánh giữa Đế quốc Áo-Hung và Đế quốc Nga, một phần của Trận Galicia, Mặt trận phía Đông trong Chiến