✨Quốc gia hetman Cossack
Quốc gia hetman Cossack (; , hay Nhà nước Cossack), tên chính thức là Quân đoàn Zaporizhia (; ), là một nhà nước của người Cossack nằm tại Trung Ukraina. Nhà nước này tồn tại từ năm 1648 đến năm 1764, nhưng hệ thống hành chính-tư pháp tồn tại đến năm 1782.
Trong Khởi nghĩa Khmelnytsky từ năm 1648 đến năm 1657 trên các lãnh thổ tại phần phía đông của Ba Lan–Litva, Quốc gia hetman được thành lập bởi Hetman Bohdan Khmelnytsky của Quân đoàn Zaporizhia. Quốc gia này thiết lập quan hệ chư hầu với nước Nga Sa hoàng theo Hiệp định Pereyaslav năm 1654; sự kiện này được nhìn nhận là một điểm mốc trong thuật chép sử Liên Xô, Ukraina và Nga. Hội đồng Pereyaslav năm 1659 hạn chế hơn nữa tính độc lập của quốc gia hetman. Hiệp định Andrusovo năm 1667 lập ra biên giới giữa Ba Lan và Nga, chia quốc gia hetman thành hai nửa dọc sông Dnepr (Dnipro) và đặt Sich Zaporozhia dưới quyền cai trị chung chính thức của Nga-Ba Lan.
Sau một nỗ lực thất bại của Ivan Mazepa nhằm phá vỡ liên minh với Nga vào năm 1708, toàn bộ khu vực được đưa vào trong tỉnh Kyiv, và quyền tự trị của người Cossack bị hạn chế nghiêm trọng. Yekaterina II của Nga chính thức bãi bỏ thể chế hetman vào năm 1764, và từ năm 1764 đến năm 1781 quốc gia hetman được hợp nhất thành tỉnh Tiểu Nga đứng đầu là Pyotr Rumyantsev, và tàn dư cuối cùng của hệ thống hành chính quốc gia hetman bị bãi bỏ vào năm 1781.
Tên gọi
Tên chính thức của Quốc gia hetman Cossack là Quân đoàn Zaporizhia (). Thuật ngữ chép sử Hetmanate (, "nhà nước Hetman") được đặt ra vào cuối thế kỷ 19, bắt nguồn từ hetman, tước hiệu của tướng quân của Quân đoàn Zaporizhia. Mặc dù không đặt trung tâm tại Zaporizhia, nhưng tên của khu vực (nghĩa là "bên kia các ghềnh" trong tiếng Ukraina) bắt nguồn từ người Cossack tại Nam Ukraina có trung tâm tại Sich Zaporizhia, cũng như là một tên gọi chung của người Cossack Ukraina với vị thế một tổ chức chính trị và quân sự. Bản đồ Ukraina của Johann Homann đề cập đến nhà nước là Ukraina, hoặc Xứ sở người Cossack (). Trong thư tín ngoại giao Nga, khu vực được gọi là Tiểu Nga ().__
Người sáng lập quốc gia hetman là Bohdan Khmelnytsky tuyên bố bản thân là người cai trị nhà nước Ruthenia trước đại biểu Ba Lan Adam Kysil vào tháng 2 năm 1649. Giám mục đô thành Sylvestr Kosiv công nhận ông là "thủ lĩnh và tư lệnh của xứ sở chúng ta". Trong thư gửi Constantin Șerban (1657), và ông gọi mình là __. Đại thân vương quốc Ruthenia là một tên gọi được đề xuất cho Quốc gia hetman Cossack với vị thế là bộ phận của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva-Ruthenia.
Lịch sử
thumb| (Bản đồ tổng thể của đồng bằng hoang vu, thường gọi là Ukraina), 1648. Phía bắc ở bên dưới bản đồ
Thành lập
Sau nhiều chiến dịch quân sự thành công chống lại Ba Lan, Hetman Bohdan Khmelnytsky đã tiến quân thắng lợi vào Kyiv trong dịp Giáng sinh năm 1648, tại đây ông được ca ngợi là người giải phóng nhân dân khỏi sự kìm kẹp của Ba Lan. Vào tháng 2 năm 1649, trong các cuộc đàm phán ở Pereiaslav với một phái đoàn Ba Lan, Khmelnytsky nói rõ với người Ba Lan rằng ông muốn trở thành hetman của một Ruthenia trải dài đến Chelm và Halych, và dựng nước với giúp đỡ từ người Tatar. Ông cảnh báo họ rằng mình dự định tiếp tục chiến dịch quân sự. thumb|upright=1.2|Hetman [[Bohdan Khmelnytsky tiến vào Kyiv năm 1648]] thumb|Bản đồ tổng thể biên giới các vùng đất mới của Ukraina năm 1649, hay các palatinate Podolia, Kiov, Braclav thumb|upright=1.2|Quân đoàn Cossack Zaporizhia năm 1654 (chồng lên Ukraina hiện nay)
Quốc vương Ba Lan Jan II Kazimierz tập hợp một đội quân tình nguyện toàn szlachta (quý tộc), và cử quân chính quy chống lại quân Cossack ở miền nam Volyn. Tuy nhiên, sau khi có được thông tin tình báo về việc quân Cossack vượt trội, quân Ba Lan rút lui về Zbarazh để bố trí phòng thủ. Khmelnytsky bao vây thành phố, phá hủy nó bằng một loạt các cuộc tấn công và bắn phá. Quốc vương Ba Lan vội vã đến giúp tướng quân Jeremi Wiśniowiecki, nhưng bị phục kích. Khmelnytsky để lại một phần quân đội cho Ivan Cherniata gần Zbarazh, di chuyển cùng với İslâm III Giray để đánh chặn quân tiếp viện của Ba Lan và chặn đường của họ tại một con sông gần Zboriv. Bị bất ngờ ở một mức độ nào đó, Jan II Kazimierz bắt đầu đàm phán với hãn của người Tatar. Với sự ủng hộ của vị hãn này, ông ta buộc Khmelnytsky bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình. Khmelnytsky ký Hiệp định Zboriv vào tháng 8 năm 1649, với kết quả ít hơn một chút so với những gì thủ lĩnh Cossack dự đoán sẽ đạt được từ chiến dịch của mình.
Khmelnytsky là người cai trị Quốc gia hetman, tham gia kiến quốc trên nhiều lĩnh vực: quân sự, hành chính, tài chính, kinh tế và văn hóa. Ông đầu tư Quân đoàn Zaporozhia dưới quyền lãnh đạo của hetman, có quyền lực tối cao ở nhà nước Ruthenia mới, và ông thống nhất tất cả các lĩnh vực của xã hội Ukraina dưới quyền của mình. Điều này liên quan đến việc xây dựng một hệ thống chính phủ và một chính quyền quân sự và dân sự phát triển từ các sĩ quan Cossack và quý tộc Ruthenia, cũng như thành lập một tầng lớp tinh hoa trong Quốc gia hetman Cossack.
Quốc gia hetman sử dụng tiền Ba Lan và tiếng Ba Lan làm ngôn ngữ hành chính và ngôn ngữ mệnh lệnh. Tuy nhiên, sau Hiệp đình đình chiến Andrusovo năm 1667, "ngôn ngữ đơn giản" (), hay ngôn ngữ bản địa thường nói của Ukraina, bắt đầu được viết và sử dụng rộng rãi trong các tài liệu chính thức của Quốc gia hetman Cossack.
Xứ bảo hộ Nga
Sau khi người Tatar Krym phản bội người Cossack lần thứ ba vào năm 1653, Khmelnytsky nhận ra rằng không thể dựa vào sự hỗ trợ của Ottoman để chống lại Ba Lan nữa, và buộc phải nhờ đến sự giúp đỡ của nước Nga Sa hoàng. Những nỗ lực đàm phán cuối cùng diễn ra vào tháng 1 năm 1654 tại thị trấn Pereyaslav giữa Khmelnytsky cùng các thủ lĩnh Cossack và đại sứ của Sa hoàng là Vasiliy Buturlin. Hiệp định được ký kết vào tháng 4 tại Moskva, đại biểu bên phía người Cossack là Samiilo Bohdanovych-Zarudny và Pavlo Teteria, và đại biểu của Nga là Aleksey Trubetskoy, Vasilii Buturlin, và các boyar khác. Theo kết quả của hiệp ước, Quân đoàn Zaporozhia trở thành một quốc gia hetman tự trị trong nhà nước Nga. Hiệp ước cũng dẫn đến Chiến tranh Nga-Ba Lan 1654–1667.
Thời kỳ suy sụp
Một thời kỳ của lịch sử quốc gia hetman được gọi là "Sự suy sụp", kéo dài từ năm 1657 đến năm 1687, được đánh dấu bằng các cuộc nội chiến liên miên trên khắp quốc gia. Sau khi Bohdan Khmelnytsky qua đời năm 1657, người con trai 16 tuổi của ông là Yurii Khmelnytsky được bầu làm người kế vị. Người con này của Bohdan không chỉ còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm, mà rõ ràng còn thiếu uy tín và phẩm chất lãnh đạo của cha mình.
Do đó, hội đồng Starshyna bầu tổng quản ghi chép (pysar) là Ivan Vyhovsky đồng thời là cố vấn của Bohdan Khmelnytsky làm hetman vào năm 1657. Cuộc bầu cử này gây ra những bất bình rộng rãi trong các trung đoàn khác và Quân đoàn Zaporizhia, họ cử phái viên đến Moskva để chuyển những lời phàn nàn. Do đó, các cuộc bầu cử mới được tổ chức vào cùng năm đó, theo đó Vyhovsky được bầu lại tại Đại hội đồng quân sự. Cuộc bầu cử này cũng được chính quyền Nga xác nhận, họ được thông báo dựa theo hiệp định Pereyaslav. Moskva tiếp tục chấp nhận những phái viên từ các vùng của Quốc gia hetman Cossack, hoàn toàn coi thường quyền lực của hetman, và tung tin đồn rằng trên thực tế Nga không ủng hộ việc Vyhovsky ứng cử.
Vyhovsky nhận thấy tình hình vượt khỏi tầm kiểm soát của mình, ông tiếp tục dập tắt cuộc nổi dậy dưới quyền lãnh đạo của kosh otaman Yakiv Barabash của Zaporozhia và Thượng tá Poltava Martyn Pushkar. Đến mùa xuân Dưới thời Mazepa, collegium Kyiv đã được chuyển đổi thành một học viện và thu hút một số học giả hàng đầu của thế giới Chính thống giáo. Đó là cơ sở giáo dục lớn nhất trên những vùng đất do Nga cai trị. Mazepa thành lập một collegium khác tại Chernihiv. Những trường này chủ yếu sử dụng tiếng Ba Lan và tiếng Latinh, đồng thời cung cấp nền giáo dục phương Tây cổ điển cho học sinh.
Người Cossack
Hầu hết người Cossack không có được địa vị cao quý và tiếp tục vai trò là những người lính tự do. Những người Cossack cấp thấp thường phẫn nộ với những người anh em giàu có hơn của họ và thường tiến hành các cuộc nổi loạn, đặc biệt là trong thời kỳ Suy sụp, thời kỳ bất ổn và nội chiến trong thế kỷ 17. Những sự phẫn nộ này thường xuyên bị Nga khai thác. Sich Zaporizhia từng là nơi ẩn náu cho những người Cossack chạy trốn khỏi quốc gia hetman giống như trước Khởi nghĩa Khmelnytsky.
Tăng lữ
Thời kỳ Quốc gia hetman, các giáo sĩ Giáo hội Công giáo La Mã và Thống nhất đã bị đuổi khỏi Ukraina. Các giáo sĩ Chính thống giáo " đen", hay tu sĩ, được hưởng địa vị rất cao trong quốc gia hetman, kiểm soát 17% đất đai toàn quốc. Các tu viện được miễn thuế và người nông dân bị ràng buộc với tu viện không được phép từ bỏ nghĩa vụ của họ. Hệ thống thứ bậc Chính thống giáo trở nên giàu có và quyền lực giống như những quý tộc quyền lực nhất. Các giáo sĩ Chính thống giáo "trắng", hay đã kết hôn, cũng được miễn nộp thuế. Con trai của các linh mục thường gia nhập giới tăng lữ hoặc dịch vụ dân sự Cossack. Không có gì lạ khi quý tộc hoặc người Cossack trở thành linh mục và ngược lại.
Thị dân
12 thành phố trong Quốc gia hetman được hưởng các quyền lợi Magdeburg, trong đó họ tự quản và kiểm soát tòa án, tài chính và thuế của riêng mình. Những thị dân giàu có có thể giữ chức vụ trong Quốc gia hetman hoặc thậm chí mua tước hiệu quý tộc. Bởi vì các thị trấn nói chung là nhỏ (các đô thị lớn nhất là Kyiv và Nizhyn có không quá 15.000 cư dân), nhóm xã hội này không quá quan trọng so với các nhóm xã hội khác.
Nông dân
Nông dân chiếm phần lớn dân số của Quốc gia hetman. Thể chế nông dân phải lao động cưỡng bức bị suy giảm đáng kể sau Khởi nghĩa Khmelnytsky, khi đó các địa chủ và đại quý tộc Ba Lan bị trục xuất khỏi lãnh thổ do Hetman kiểm soát. Tuy nhiên, những quý tộc trung thành với Hetman cũng như Giáo hội Chính thống giáo mong muốn những người nông dân dưới quyền kiểm soát của họ tiếp tục phục vụ. Do đó, kết quả của cuộc khởi nghĩa là khoảng 50% lãnh thổ bao gồm ruộng đất được trao cho các sĩ quan Cossack hoặc các làng tự quản tự do do nông dân kiểm soát, 33% đất đai thuộc sở hữu của các sĩ quan và quý tộc Cossack, và 17% của đất đai thuộc sở hữu của Giáo hội. Cùng với thời gian, số lượng lãnh thổ thuộc sở hữu của giới quý tộc và sĩ quan dần dần tăng lên, đi kèm với suy giảm lượng đất đai thuộc sở hữu của nông dân và người Cossack bình thường, và nông dân buộc phải làm việc ngày càng nhiều ngày hơn cho địa chủ của họ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của họ vẫn nhẹ hơn so với trước cuộc khởi nghĩa; và cho đến khi kết thúc Quốc gia hetman, nông dân chưa bao giờ được hoàn toàn giải phóng hay giữ quyền di chuyển.
Hành chính
Quốc gia hetman được chia thành các khu hành chính quân sự được gọi là các khu trung đoàn (polky) có số lượng dao động theo quy mô lãnh thổ của Quốc gia hetman. Năm 1649, khi Quốc gia hetman kiểm soát cả hữu ngạn và tả ngạn, họ bao gồm 16 khu như vậy. Sau khi mất Ukraina hữu ngạn, con số này giảm xuống còn mười. Các khu trung đoàn được chia thành các đại đội (sotnia), được quản lý bởi các đại úy (sotnyk). Các đại đội được đặt tên theo nguồn gốc của họ hoặc thủ lĩnh của họ, và rất đa dạng về số lượng và có thể lên đến 16.
Được biết, người đầu tiên giới thiệu đơn vị trung đoàn là Thân vương Ostafii Ruzhynsky vào năm 1515. Ban đầu thành lập 20 trung đoàn, mỗi đơn vị bao gồm 2.000 người Cossack, nhưng đã bị Quốc vương Ba Lan Stephen Báthory giảm xuống còn 10 vào năm 1576.
Danh sách trung đoàn
Các khu trung đoàn đầu tiên được xác nhận theo Hiệp định Kurukove năm 1625, trong đó có Trung đoàn Bila Tserkva, Trung đoàn Kaniv, Trung đoàn Korsun, Trung đoàn Kyiv , Trung đoàn Pereyaslav, Trung đoàn Cherkasy. Tất cả chúng đều nằm trong tỉnh Kyiv của Ba Lan. Theo Hiệp định Zboriv, có 23 trung đoàn. Năm 1667, việc ký kết Hiệp định đình chiến Andrusovo giữa nước Nga Sa hoàng và Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva đã bảo đảm 10 trung đoàn của Ukraina tả ngạn cho Nga, bao gồm Kyiv, trong khi sáu trung đoàn của Ukraina hữu ngạn là một phần của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva.
Thủ đô là thành phố Chyhyryn. Sau Hiệp định Andrusovo, vào năm 1669, thủ đô được chuyển đến Baturyn, còn Chyhyryn trở thành một phần của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva (nằm tại Ukraina hữu ngạn). Sau thảm kịch Baturyn năm 1708 do quân đội Nga của Aleksandr Menshikov tiến hành, khu vực này được sáp nhập vào tỉnh Kyiv, thành phố Hlukhiv trên danh nghĩa là nơi ở của Hetman.
Trong Quốc gia hetman, tiếng Ba Lan thường được sử dụng làm ngôn ngữ hành chính và thậm chí là mệnh lệnh. Bất chấp hiệp định này, Khmelnystky tiếp tục trao đổi thư từ với Ottoman để khiến người Nga và người Ottoman chống lại nhau. Anh ấy nói với mỗi bên rằng mình đã liên minh với bên kia chỉ vì lý do chiến thuật.
Thời kỳ Vyhovsky và Doroshenko
Sau khi Bohdan Khmelnytsky qua đời vào năm 1657, Ukraina trở nên bất ổn hơn, dẫn đến xung đột giữa các phe Cossack thân Ba Lan và thân Nga. Năm 1658, hetman Ivan Vyhovsky đàm phán Liên minh Hadiach, liên minh này dự kiến thành lập một Thịnh vượng chung gồm ba phần, kết hợp Quốc gia hetman Cossack với tư cách là "Đại công quốc Ruthenia" ngang hàng với các thành viên hiện tại: Vương quốc Ba Lan và Đại công quốc Litva. Tuy nhiên, do Vyhovsky mất quyền lực nên điều này không thành hiện thực, trong khi xung đột vẫn tiếp diễn trong nhà nước Cossack. Đến năm 1660, nhà nước về cơ bản bị chia cắt dọc theo sông Dnepr, với phía tây do Ba Lan kiểm soát và phía đông do Nga kiểm soát. Năm 1663, người Cossack nổi dậy chống lại Thịnh vượng chung và với sự giúp đỡ của người Tatar Krym vào năm 1665, Hetman Petro Doroshenko lên nắm quyền, với hy vọng đưa Ukraina ra khỏi sự kiểm soát của cả Nga và Ba Lan-Litva. Hai cường quốc đã hoàn toàn phớt lờ lợi ích của Quốc gia hetman và phân chia nó dọc theo Dnepr trong Hiệp định đình chiến Andrusovo. Năm 1666, Doroshenko bắt đầu lại việc trao đổi thư từ giữa người Cossack với người Ottoman.
Đế quốc Ottoman nhận định Hiệp định đình chiến Andrusovo là một mối đe dọa, và bắt đầu thực hiện một chính sách tích cực hơn trong khu vực. Vào ngày 8 tháng 6 năm 1668, Doroshenko trở thành hetman duy nhất của toàn bộ Ukraina và quay trở lại với ý tưởng đặt Ukraina dưới sự bảo hộ của Ottoman, vì biết rằng sẽ rất khó để tồn tại. Sau các cuộc đàm phán, cả hai bên đã đồng ý rằng 1.000 cấm vệ quân (janissary) sẽ không đóng quân ở Kodak và Ukraina sẽ không phải nộp bất kỳ khoản cống nạp nào. Doroshenko cũng soạn thảo 17 điều khoản trên cơ sở chấp nhận sự bảo hộ của Ottoman. Doroshenko phát ra một lá thư quy phục sultan vào ngày 24 tháng 12 năm 1668, được Sublime Porte xác nhận vào tháng 6 năm 1669. Khi Ba Lan-Litva cố gắng lật đổ Doroshenko và chiếm lấy Quốc gia hetman, người Ottoman tuyên chiến vào năm 1672 và hành quân về phía bắc vào Kamianets-Podilskyi, được người Cossack của Doroshenko và người Tatar Krym đứng về phía họ. Sau chiến tranh, người Ottoman đã ký một hiệp ước với Ba Lan-Litva, giao vùng Podolia cho Ottoman. Tiếp tục chiến đấu với Ba Lan-Litva dẫn đến việc người Ottoman phải nhượng lại tỉnh Podolia trong Hiệp định Karlowitz. Năm 1674, Nga xâm chiếm Quốc gia hetman và bao vây thủ đô Chyhyryn, khiến Ottoman và người Tatar Krym gửi quân của họ đến đối đầu với Nga. Người Nga rút lui trước khi bất kỳ cuộc đối đầu nào xảy ra, nhưng người Ottoman đã san bằng và cướp bóc các khu định cư ở Quốc gia hetman thân thiện với người Nga theo lời Darü'l-İslam. Doroshenko đầu hàng quân Nga 2 năm sau, vào năm 1676.
Mặc dù người Ottoman, người Ba Lan và người Nga đều có bằng chứng cho thấy Quốc gia hetman Cossack từng thề trung thành với nhiều bên đồng thời, "họ chọn cách giả bộ rằng họ không biết về bất kỳ lòng trung thành kép nào". Người Ottoman không củng cố chỗ đứng của họ tại Ukraina bằng một sự hiện diện quân sự mạnh mẽ, bởi vì một vùng đệm biên giới phù hợp với lợi ích của họ. về việc tên người Ottoman gọi Quốc gia hetman, dưới thời Khmelnytsky thì gọi là eyalet (tỉnh); dưới thời Doroshenko thì gọi là một sancak (kỳ) đến tháng 6 năm 1669. Người Ottoman gọi Quốc gia hetman Cossack là "quốc gia Ukraina" (). Sử gia Viktor Ostapchuk thảo luận về quan hệ Ukraina-Ottoman theo cách như sau:
1. Tổng lãnh thiên thần Micae, thánh bảo trợ của Kyiv và Ukraina