Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan () là một tổ chức yêu nước chống phát xít Đức của Ba Lan được thành lập vào ngày 21 tháng 7 năm 1944 ở Chełm. Nó hoạt động như một chính phủ lâm thời tại những vùng lãnh thổ Ba Lan được quân đội Liên Xô giải phóng trong chuỗi chiến dịch hè-thu năm 1944 và là một đối trọng chính trị với Chính phủ lưu vong Cộng hòa Ba Lan tại Luân Đôn.
Thành lập
phải|[[Edward Osóbka-Morawski, chủ tịch Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan.]]
nhỏ|phải|[[Wanda Wasilewska, phó chủ tịch Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan.]]
Ý tưởng về một Ủy ban Giải phóng Dân tộc đại diện cho dân tộc Ba Lan bắt nguồn từ Ủy ban Giải phóng Dân tộc Pháp thành lập vào tháng 6 năm 1943. Đến giữa năm 1944, trước các biến chuyển mau lẹ về quân sự và chính trị tại Byelorussia và Ba Lan, Moskva nhận thấy đã đến lúc thành lập một tổ chức chính trị tương tự đại diện cho dân tộc Ba Lan. Quyết định thành lập Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan được soạn thảo trong cuộc họp từ ngày 18 đến 20 tháng 7 và được chính I. V. Stalin thông qua.
Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan được thành lập vào ngày 27 tháng 7 năm 1944 tại thành phố Chełm ở gần vùng biên giới Đông Nam Ba Lan. Thành phần Ủy ban bao gồm các thành viên thuộc các đảng phái như Đảng Công nhân Ba Lan, Đảng Xã hội Ba Lan, Đảng Dân chủ Ba Lan và Đảng Nhân dân Ba Lan, cụ thể bao gồm các thành viên sau:
Edward Osóbka-Morawski (Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Ba Lan), chủ tịch Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan kiêm Bộ trưởng Ngoại giao
Wanda Wasilewska (Đảng Công nhân Ba Lan), phó chủ tịch Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan
Andrzjey Vitos (Đảng Nông dân), Bộ trưởng Nông nghiệp và Cải cách điền địa
Stanisław Kotek-Agroszewski (Đảng Nông dân "Ý chí của Nhân dân"), Bộ trưởng Hành chính công
Stanisław Radkiewicz (Đảng Công nhân Ba Lan), Bộ trưởng An toàn công cộng
Jan Stefan Haneman (Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Ba Lan), Bộ trưởng Kinh tế Quốc gia và Tài chính
Stefan Jędrychowski (Đảng Công nhân Ba Lan), Bộ trưởng Thông tin và Tuyên truyền
Jan Michał Grubecki (Đảng Nông dân), Bộ trưởng Liên lạc, Thư tín và Điện báo
Aleksander Zawadzki (Đảng Dân chủ Ba Lan), Bộ trưởng Văn hóa Nghệ thuật
Michał Rola-Żymierski (Đảng Công nhân Ba Lan), Bộ trưởng Quốc phòng
Emil Sommerstein (không đảng phái), Bộ trưởng Hàn gắn chiến tranh
Stanisław Skrzeszewski (Đảng Công nhân Ba Lan), Bộ trưởng Giáo dục
Boleslaw Drobner (Đảng Xã hội Ba Lan), Bộ trưởng Lao động, Sức khỏe và Phúc lợi xã hội
Jan Czechowski (Đảng Nông dân "Ý chỉ của Nhân dân"), Bộ trưởng Luật pháp
Zygmunt Berling
Marian Spychalski
Władysław Gomułka
Bolesław Bierut
*Edward Akhab
Người đứng đầu Ủy ban là Edward Osubka-Morawski. Ủy ban cũng nhận được sự ủng hộ của một số thành viên thuộc chính phủ lưu vong Ba Lan ở Luân Đôn như giáo sư S. Grabski và tướng L. Zeligowski.
Hoạt động
nhỏ|phải|Tuyên ngôn của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan công bố ngày 27 tháng 7 năm 1944.
Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan hoạt động với tư cách như là một chính phủ lâm thời tại các vùng lãnh thổ Ba Lan được quân đội Liên Xô giải phóng trong chuỗi hoạt động quân sự hè-thu năm 1944. Nó nhận được sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của Liên Xô và cũng là một đồng minh của quốc gia này, trở thành đối trọng chính trị của Chính phủ lưu vong Ba Lan ở Luân Đôn. Hoạt động đầu tiên của Ủy ban là công bố Tuyên ngôn của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan () - hay còn gọi là Tuyên ngôn tháng Bảy (Manifest Lipcowy) - vào ngày 21 tháng 7 năm 1944, với nội dung bao hàm một chương trình xây dựng một nước Ba Lan dân chủ, độc lập, vững mạnh cũng như tuyên bố sẽ tiếp tục cuộc chiến chống lại quân xâm lược Đức. Để tranh thủ sự ủng hộ của tất cả các lực lượng yêu nước thuộc nhiều đảng phái khác nhau, phiên bản thứ hai của bản tuyên ngôn đã chú ý không đề cập đến những phần nội dung có hàm ý đề cập đến lập trường cực tả hay chủ nghĩa cộng sản Ngày 26 tháng 7, chính phủ Liên Xô và Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan ký hiệp định công nhận thẩm quyền của Ủy ban tại các vùng giải phóng của Ba Lan.
Hệ thống pháp luật cũng được ban hành tại các vùng giải phóng, trong đó có các điều luật nghiêm khắc nhằm trừng phạt những phần tử chống lại chính quyền nhân dân (tháng 10 năm 1944) hoặc trừng phạt các phần tử hợp tác với chế độ phát xít Đức (tháng 8 năm 1944). Ngoài ra, Ủy ban Giải phóng dân tộc Ba Lan còn cho phép áp dụng chế độ quân luật tại các vùng vừa được Hồng quân Liên Xô giải phóng. Theo luật này các nhân viên của Bộ Công an (MOB) có quyền bắt giữ những binh sĩ của quân đội Krajowa.
Ngày 15 tháng 8 năm 1944, Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan ban hành lệnh tổng động viên, áp dụng đối với các thanh niên sinh năm 1921-24 cũng như bất cứ cựu sĩ quan, quân nhân nào có khả năng trong việc phục vụ tại quân ngũ. Trong vòng vài tháng, Ủy ban đã tuyển mộ được vài vạn binh sĩ trong cộng đồng người Ba Lan sống ở Liên Xô và khoảng 100.000 người tại các lãnh thổ Ba Lan được giải phóng.
Ngày 6 tháng 9, Ủy ban ban hành sắc lệnh cải cách ruộng đất và tiến hành áp dụng tại một số địa phương. Trong cuộc cải cách, 260 hécta đất đã được cấp phát cho người dân nghèo, trong đó 47% người được cấp phát là cố nông, 49% là bần và trung nông, 4% là nghệ sĩ và các nhóm dân cư khác. Cải cách ruộng đất đã khiến Ủy ban giành được sự ủng hộ của nông dân nghèo.
Các hoạt động của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan đã gặp phải sự chống phá của một số thành phần chống đối theo nhiều hình thức như phá hoại, ám sát, khủng bố... Chỉ trong năm 1944, các lực lượng chống đối đã giết hại 300 người và trong năm 1945 là gần 3.500 người.
Thành lập Chính phủ lâm thời Cộng hòa Ba Lan
Tháng 10 năm 1944, các thành viên của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan đã bắt đầu có các cuộc tiếp xúc với Chính phủ lưu vong Ba Lan ở Luân Đôn để đàm phán về việc thành lập một chính phủ lâm thời thống nhất. Đến cuối năm, một số thành viên của chính phủ lưu vong như Stanisław Mikołajczyk đã chấp nhận tham gia Ủy ban Giải phóng. Ngày 31 tháng 12 năm 1944, Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan ban hành sắc lệnh chuyển đổi cơ quan này thành Chính phủ lâm thời Cộng hòa Ba Lan.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan** () là một tổ chức yêu nước chống phát xít Đức của Ba Lan được thành lập vào ngày 21 tháng 7 năm 1944 ở Chełm. Nó
Sau khi Cuộc tấn công Ba Lan được phát động bởi cả Liên Xô và Đức Quốc Xã, các chiến dịch khủng bố và đàn áp người Ba Lan của Liên Xô đã bắt đầu
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng
**Ủy ban Sự vụ dân tộc Quốc gia Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (tiếng Trung: 中华人民共和国国家民族事务委员会, gọi ngắn: 国家民委), viết tắt là **Ủy ban Dân sự**, **Ủy ban Dân tộc**, **Dân ủy Quốc gia**
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Cộng hòa Nhân dân Ba Lan** (1952–1989), trước đây là **Cộng hòa Ba Lan** (1944–1952), là một quốc gia ở Trung Âu tồn tại như tiền thân của Cộng hòa Ba Lan dân chủ hiện
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Harta** là một ngôi làng nằm ở xã Dynów, huyện Rzeszowski, tỉnh Podkarpackie, Ba Lan. Làng có kiểu một đường trục xuyên suốt tọa lạc tại chân đồi Dynowskie, trong trũng suối cùng tên trải
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Tháng Mười Ba Lan**, còn gọi là **Tháng Mười năm 1956**, **Giải đông Ba Lan** hay **Giải đông Gomulka**, là cải cách chính trị Ba Lan trong nửa sau năm 1956, vài nhà khoa học
**Âm nhạc Ba Lan** bao gồm các khía cạnh khác nhau của âm nhạc đương đại và âm nhạc dân gian có nguồn gốc từ Ba Lan. Các nghệ sĩ đến từ Ba Lan bao
**Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (giản thể: 中国人民解放军, phồn thể: 中國人民解放軍, phiên âm Hán Việt: Trung Quốc Nhân dân Giải phóng Quân), gọi tắt là **Giải phóng quân**, cũng được gọi là **Quân
**Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva** (, ) hay **Liên bang Ba Lan – Litva** hay **Thịnh vượng chung Ba Lan – Litva** là một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Những người lính bị nguyền rủa** (), là cách gọi về các lực lượng vũ trang chống cộng sản ở Ba Lan sau năm 1945 và được tiến hành bởi những cựu binh của lực
**Chiến tranh Nga–Ba Lan** diễn ra giữa nước Nga Xô viết và Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan do xung đột sắc tộc cũng như thái độ chống cộng của Ba Lan từ 1919 đến
**Edward Bolesław Osóbka-Morawski** (Phát âm tiếng Ba Lan: ; 5 tháng 10 năm 1909 - 9 tháng 1 năm 1997) là một nhà hoạt động và chính trị gia người Ba Lan thuộc Đảng Xã
**Tượng đài Aleksander Fredro tại Wrocław** (tiếng Ba Lan: _Pomnik Aleksandra Fredry we Wrocławiu_) là một bức tượng bằng đồng vinh danh Aleksander Fredro (1793 –1876) nhà thơ, nhà viết kịch người Ba Lan trong
nhỏ|Wincenty Rzymowski **Wincenty Rzymowski** (sinh ngày 19 tháng 06 năm 1883 - mất ngày 30 tháng 04 năm 1950) là một chính trị gia và nhà văn người Ba Lan. Ông là một trong những
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
Tất cả các hoạt động trong lịch sử của Ba Lan nhằm mục đích giáo dục và nuôi dạy. Các cấu trúc cơ bản mà các hoạt động giáo dục được thực hiện trong nhà
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Ô Lan Phu** (; ; 23 tháng 12 năm 1906 - 8 tháng 12 năm 1988) bí danh **Vân Trạch**, **Vân Thời Vũ**,là người Mông Cổ, Nội Mông Cổ, Trung Quốc. Ông là chính trị
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai
**Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất** (**UMNO**; tiếng Mã Lai: _Pertubuhan Kebangsaan Melayu Bersatu_) là chính đảng lớn nhất của Malaysia. Đây là một thành viên sáng lập của Liên minh Mặt trận
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
**Maria Karolina Zofia Felicja Leszczyńska của Ba Lan** (; 23 tháng 6 năm 1703 – 24 tháng 6 năm 1768), còn được gọi là **Marie Leczinska** (), là Vương hậu Pháp sau khi kết
**Lịch sử Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva** (1764–1795) liên quan đến những thập kỷ tồn tại cuối cùng của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Thời kỳ này nhà nước suy tàn theo đuổi
Trong Thế chiến I không tồn tại một quốc gia Ba Lan độc lập, với vị trí địa lý nằm giữa các cường quốc tham chiến, có nghĩa là nhiều trận chiến và tổn thất
thumb|[[Nhà thờ Thánh Florian|Thánh đường Công giáo Rôma Thánh Florian ở Warszawa. Đại đa số những Người Ba Lan là tín đồ Kitô giáo.]] Ba Lan là một trong những quốc gia sùng đạo ở
nhỏ|[[Ze'ev Jabotinsky]] **Chủ nghĩa phục quốc Do Thái xét lại** (tiếng Hebrew: ציונות רוויזיוניסטית) hay **Chủ nghĩa Zion xét lại** là một phong trào trong Chủ nghĩa phục quốc Do Thái do Ze'ev Jabotinsky khởi
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Đảng Cộng sản Việt Nam** là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay,
**Việt Nam Quốc Dân Đảng** (**VNQDĐ**; chữ Hán: ), gọi tắt là **Việt Quốc**, là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ chủ trương tìm kiếm độc lập khỏi
**Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc** hay **Hải quân Trung Quốc** () là lực lượng hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Quy mô tổ chức của Hải quân
**Đại Việt Quốc dân Đảng**, thường được gọi tắt là **Đảng Đại Việt**, là một đảng phái chính trị của Việt Nam, thành lập từ năm 1939. Đảng Đại Việt là một trong những đảng
**Chính quyền Dân tộc Palestine** (**PNA** hay **PA**; _Al-Sulṭa Al-Waṭaniyyah Al-Filasṭīniyyah_) là tổ chức hành chính được lập ra để cai quản các vùng của lãnh thổ Palestine gồm Bờ Tây và Dải Gaza. Chính
**Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina** hoặc **Cộng hoà Dân tộc Ukraina** (; viết tắt ), trong một khoảng thời gian tồn tại gọi là **tỉnh miền Tây của Cộng hoà Nhân dân Ukraina** (
thumb|upright|Biểu ngữ kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng đất nước **Hòa giải và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam** là một khái niệm để chỉ sự hòa giải
nhỏ|Quốc huy Cộng hòa Ý Ngày 2 tháng 6 năm 1946, một cuộc trưng cầu ý dân về chế độ chính trị của Ý được tổ chức. Kết quả trưng cầu ý dân cho thấy
**Cách mạng Dân tộc Indonesia** hoặc **Chiến tranh Độc lập Indonesia** là một xung đột vũ trang và đấu tranh ngoại giao giữa Indonesia và Đế quốc Hà Lan, và một cách mạng xã hội
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,