✨Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina

Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina

Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina hoặc Cộng hoà Dân tộc Ukraina (; viết tắt ), trong một khoảng thời gian tồn tại gọi là tỉnh miền Tây của Cộng hoà Nhân dân Ukraina ( hoặc ), là một thực thể tồn tại ngắn ngủi từng kiểm soát hầu hết Đông Galicia từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919. Nước cộng hoà bao gồm các thành phố Lviv, Ternopil, Kolomyia, Drohobych, Boryslav, Stanislaviv (nay là Ivano-Frankivsk) và Przemyśl hữu ngạn, và yêu sách một phần của Bukovina và Ruthenia Karpat. Về mặt chính trị, Đảng Dân chủ Dân tộc Ukraina (tiền thân của Liên minh Dân chủ Dân tộc Ukraina giữa hai thế chiến) chi phối hội nghị lập pháp, hướng theo ở mức độ khác nhau hệ tư tưởng của Công giáo Hy Lạp, tự do và chủ nghĩa xã hội. Các đảng khác có đại diện gồm Đảng Cấp tiến Ukraina và Đảng Xã hội Cơ Đốc giáo.

Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina xuất hiện với tư cách một nhà nước ly khai trong quá trình Áo-Hung giải thể, và đến tháng 1 năm 1919 họ thống nhất trên danh nghĩa với Cộng hoà Nhân dân Ukraina với tư cách là khu tự trị tỉnh miền Tây. Ba Lan cũng yêu sách lãnh thổ này, và đến tháng 7 họ chiếm lĩnh hầu hết khu vực và buộc chính phủ Tây Ukraina phải lưu vong. Đến khi Cộng hoà Nhân dân Ukraina quyết định về việc đổi lãnh thổ này để kết liên minh với Ba Lan nhằm chống lại nước Nga Xô viết, chính phủ Tây Ukraina lưu vong cắt đứt quan hệ với Cộng hoà Nhân dân Ukraina. Chính phủ lưu vong tiếp tục yêu sách của mình cho đến khi giải thể vào năm 1923.

Quốc huy của Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina có nền xanh da trời, và một sư tử vàng hung hãn. Màu sắc của quốc kỳ là xanh lam và vàng, màu xanh lam nhạt hơn nhiều so với quốc kỳ Ukraina hiện nay.

Lịch sử

Bối cảnh

Theo điều tra nhân khẩu năm 1910 của Đế quốc Áo-Hung, lãnh thổ do Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina có khoảng 5,3 triệu người. Trong đó, 3.132.233 (58,9%) là người Ukraina và 2.114.792 (39,8%) là người Ba Lan, còn lại là người Do Thái, người Rusyn, người Đức, người Hungary, người Romania, người Czech, người Slovak, người Di-gan, người Armenia và các dân tộc khác. Người Do Thái chiếm đến 12% dân số - nhưng họ chủ yếu nói tiếng Ba Lan và được xác định là người Ba Lan, như Stanisław Lem. Phần lớn cư dân khu vực sống tại nông thôn, các thành thị có cư dân hầu hết là người Ba Lan và người Do Thái, còn người Ukraina chiếm ưu thế tại vùng thôn quê. Điều này tạo ra vấn đề với người Ukraina, vì thành phố lớn nhất là Lviv (, ), có người Ba Lan chiếm đa số và được nhìn nhận là một trong các thành phố Ba Lan quan trọng nhất.

Trữ lượng dầu mỏ gần Lviv tại Drohobych và Boryslav tại thượng du sông Dniester nằm vào hàng lớn nhất tại châu Âu. Liên kết đường sắt đến khu vực Ukraina do Nga cai trị hay đến Romania ít ỏi: Brody nằm trên một tuyến từ Lviv đến thượng du sông Styr, Pidvolochysk (Podwoloczyska) nằm trên một tuyến từ Ternopil đến Proskurov (nay là Khmelnytskyi) thuộc Podolia, và một tuyến dọc sông Prut từ Kolomyia (Kolomca) đến Chernivtsi (Czernowitz) tại Bukovina.

Do đó bối cảnh này tạo môi trường cho xung đột giữa Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina và Ba Lan.

Độc lập và đấu tranh tồn tại

Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina tuyên bố thành lập vào ngày 1 tháng 11 năm 1918. Hội đồng Dân tộc Ukraina (gồm tất cả các đại biểu Ukraina từ cả hai viện của nghị viện Áo và các hội đồng lập pháp cấp tỉnh tại Galicia và Bukovina) có kế hoạch tuyên bố Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina vào ngày 3 tháng 11 năm 1918 nhưng chuyển sang ngày tháng 11 do các báo cáo rằng Uỷ ban Thanh lý Ba Lan được chuyển từ Kraków đến Lviv. Ngay sau khi nước cộng hoà tuyên bố độc lập từ Đế quốc Áo-Hung, một cuộc nổi dậy quần chúng diễn ra tại Lviv, là nơi hầu hết cư dân là người Ba Lan và không muốn trở thành một phần của một nhà nước không phải Ba Lan. Một vài tuần sau, người Ba Lan nổi dậy tại Lviv nhận được ủng hộ từ Ba Lan. Ngày 9 tháng 11, lực lượng người Ba Lan cố chiếm lĩnh các mỏ dầu Drohobych một các bất ngờ nhưng bị đẩy lui, bị quân Ukraina áp đảo về số lượng. Kết quả bế tắc với việc người Ba Lan giữ được quyền kiểm soát Lviv và một dải đất hẹp xung quanh một tuyến đường sắt nối thành phố với Ba Lan, trong khi phần còn lại của Đông Galicia vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina. Trong Chiến tranh Ba Lan-Ukraina, quân đội Tây Ukraina có thể giữ chân Ba Lan trong khoảng chín tháng, Các quan chức người Ba Lan từ chức hàng loạt, hủy hoại khả năng của nước cộng hoà để có thể lãnh đạo một chính quyền hiệu quả. Người Ba Lan chiếm ưu thế tại các khu vực đô thị và bắt đầu nổi dậy chống lại quyền cai trị của người Ukraina không chỉ tại Lviv, mà còn tại Drohobych, Przemyśl, Sambir và Jarosław. Điều này khiến chính phủ Tây Ukraina không thể kiểm soát nửa phía tây của lãnh thổ, và khiến cuộc tấn công của Ba Lan là khả dĩ.

Trong khi đó, hai nhà nước nhỏ nằm ngay phía tây của Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina cũng tuyên bố độc lập do kết quả từ quá trình giải thể của Đế quốc Áo-Hung.

  • Cộng hoà Komancza là một hiệp hội của 30 làng Lemko, cơ sở nằm xung quanh Komańcza tại phần phía đông vùng Lemko. Nước cộng hoà tồn tại từ ngày 4 tháng 11 năm 1918 đến ngày 23 tháng 1 năm 1919. Thực thể thân Ukraina này có kế hoạch thống nhất với Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina, nhưng bị chính phủ Ba Lan đàn áp trong Chiến tranh Ba Lan–Ukraina.
  • Ngày 5 tháng 12 năm 1918, Ruska Narodna Respublika Lemkiv (Cộng hoà Dân tộc Rusyn Lemko) cũng tuyên bố độc lập. Cộng hoà Dân tộc Rusyn Lemko có trung tâm tại Florynka, một làng tại đông nam Ba Lan ngày nay. Tình cảm thân Nga chiếm ưu thế trong cư dân tại đây, họ phản đối thống nhất với Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina và thay vào đó tìm cách thống nhất với Nga.

Một thoả thuận để thống nhất Tây Ukraina với phần còn lại của Ukraina được tiến hành vào ngày 1 tháng 12 năm 1918. Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina chính thức thống nhất với Cộng hoà Nhân dân Ukraina vào ngày 22 tháng 1 năm 1919, sau đó thực thể được gọi là tỉnh miền Tây của Cộng hoà Nhân dân Ukraina. Tuy nhiên, điều này hầu như mang tính tượng trưng.

Do Tây Ukraina có truyền thống khác biệt về các chuẩn mực luật pháp, xã hội và chính trị, họ có quyền tự trị trong một nước Ukraina thống nhất. Hơn nữa, người Tây Ukraina được giữ lại Quân đội Galicia Ukraina và cấu trúc chính phủ. Mặc dù thống nhất trên danh nghĩa, Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina và Cộng hoà Nhân dân Ukraina chiến đấu trong các cuộc chiến riêng biệt. CHND Tây Ukraina vướng vào một cuộc xung đột với Ba Lan, còn CHND Ukraina đấu tranh với các lực lượng Xô viết và Bạch vệ. Thông thạo văn hoá của hệ thống nghị viện Áo và cách tiếp cận có trật tự đối với chính phủ, họ nhìn nhận thái độ cách mạng xã hội của thực thể tại Kyiv với phần nào mất tinh thần và với lo ngại rằng bất ổn xã hội tại phía Đông sẽ lan đến Galicia. Tương tự, quân đội Tây Ukraina có kỷ luật hơn, còn Quân đội Nhân dân Ukraina của Kyiv hỗn loạn hơn và có xu hướng tiến hành tàn sát, điều mà người Tây Ukraina tích cực phản đối. Kỷ luật kém của quân đội Kyiv và sự bất phục tùng của các sĩ quan của họ gây sửng sốt cho các phái đoàn Galicia được cử đến Kyiv.

Lưu vong và ngoại giao

Sau thất bại trước Ba Lan, một phần của bại quân Tây Ukraina tìm cách tị nạn tại Tiệp Khắc và tại đó được gọi bằng tên Ukrajinská brigáda. Ngày 16 tháng 7 năm 1919, đội quân còn lại gồm khoảng 50.000 binh sĩ, vượt biên sang lãnh thổ của Cộng hoà Nhân dân Ukraina và tiếp tục chiến đấu cho nền độc lập của Ukraina tại đó.

Cùng tháng đó, tỉnh miền Tây thành lập một chính phủ lưu vong tại thành phố Kamianets-Podilskyi. Quan hệ giữa chính phủ Tây Ukraina lưu vong và chính phủ Kyiv tiếp tục xấu đi, một phần là do người Tây Ukraina nhìn nhận Ba Lan là kẻ thù chính (còn người Nga là một đồng minh tiềm năng) trong khi Symon Petliura tại Kyiv nhìn nhận Ba Lan là một đồng minh tiềm năng chống lại các đối thủ Nga của ông. Phản ứng trước các đàm phán ngoại giao của chính phủ Kyiv với Ba Lan, chính phủ Tây Ukraina cử một phái đoàn đến Tập đoàn quân 12 Xô viết, nhưng cuối cùng bác bỏ các điều kiện của Xô viết cho một liên minh. Vào tháng 8 năm 1919, người đứng đầu của ban bí thư nhà nước Tây Ukraina là Kost Levytsky đề xuất một liên minh với lực lượng Bạch vệ Nga của Anton Denikin, liên quan đến đảm bảo quyền tự trị trong một nhà nước Nga. Các nhà ngoại giao Tây Ukraina tại Paris tìm cách liên hệ với các đối tác Nga trong thành phố. Chính phủ Tây Ukraina lưu vong sau đó "từ bỏ thể chế chung" với Đốc chính và đến ngày 20 tháng 12 thì đơn phương hủy bỏ Đạo luật Thống nhất. Chính phủ lưu vong nối lại tên gọi Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina vào đầu năm 1920. Đây là một tuyến tạm thời, cho đến khi vấn đề được giải quyết bởi Hội nghị Hòa bình Paris.

Phía Ba Lan chấp nhận giải pháp này, nhưng phái đoàn Ukraina nhất quyết ủng hộ 'đường San'. Do sự phản đối của Ukraina, phái đoàn Entente đã thực hiện một nỗ lực hòa giải khác. Việc này được thực hiện bởi tiểu ban Ủy ban Liên đồng minh về Ba Lan được thành lập vào ngày 15 tháng 2 năm 1919 và do Joseph Noulens đứng đầu. Tiểu ban gồm có Tướng Joseph Barthelemy (Pháp) làm chủ tịch, Thượng tá Adrian Carton de Wiart (Anh), Tiến sĩ Robert Howard Lord (Hoa Kỳ) và Thiếu tá Giovanni Stabile (Ý). Tiểu ban đã trình bày một dự thảo quy ước đình chiến vào ngày 15 tháng 2 năm 1919. Thỏa thuận đình chiến dọc theo đường Barthelemy, hoàn toàn mang tính chất quân sự và không ảnh hưởng đến các quyết định của Hội nghị Hòa bình Paris theo bất kỳ cách nào. Một phần không thể thiếu của quy ước là một hiệp ước bổ sung liên quan đến bể dầu mỏ Boryslav-Drohobych. Nó vẫn ở phía Ba Lan của đường đình chiến dưới quyền quản lý của một ủy ban quốc tế, với 50% sản lượng dầu sẽ được chuyển giao cho phía Ukraina. Ba Lan và CHND Tây Ukraina chỉ có thể ghi lại khối lượng sản xuất và thanh toán cho nguồn cung cấp dầu. Dự án đảm bảo lợi ích của Entente trong bể dầu mỏ và là bước đầu tiên hướng tới việc trung lập hóa nó. Vào thời điểm đề xuất, lãnh thổ của lưu vực nằm dưới sự kiểm soát của Quân đội Galicia Ukraina. Đối với chính phủ Tây Ukraina, các điều khoản của Quy ước Đình chiến là không có lợi; tuy nhiên, chúng đã đưa ra cơ hội thỏa hiệp với Ba Lan và được Entente công nhận quốc tế đối với nhà nước Ukraina.

Ủy ban đã thành công trong việc ký kết hiệp ước đình chiến vào ngày 24 tháng 2 năm 1919 và trình bày các đề xuất của mình với các bên vào ngày 28 tháng 2, nhưng đã bị phía Tây Ukraina từ chối. Do không đồng ý về đường phân định, các hành động thù địch giữa Ba Lan và Ukraina lại tiếp tục vào ngày 2 tháng 3.

Hiệp định Warszawa (1920)

Vào tháng 4 năm 1920, Józef Piłsudski của Ba Lan và Symon Petliura của CHND Ukraina đã đồng ý trong Hiệp định Warszawa về biên giới trên sông Zbruch, chính thức công nhận quyền kiểm soát của Ba Lan đối với lãnh thổ tranh chấp Đông Galicia. Để đổi lấy việc đồng ý về đường biên giới dọc theo sông Zbruch, công nhận các lãnh thổ mà Ba Lan giành được gần đây tại Tây Ukraina, cũng như các phần phía tây của tỉnh Volyn, tỉnh Kholm và các vùng lãnh thổ khác (Điều II), Ba Lan công nhận Cộng hòa Nhân dân Ukraina là một quốc gia độc lập (Điều I) với biên giới được xác định bởi Điều II và III và dưới sự lãnh đạo của otaman Petliura. Chính phủ Ba Lan tại Warszawa và chính phủ lưu vong Tây Ukraina đều không đồng ý hiệp định này.

Tình trạng tự trị

Người Tây Ukraina tiếp tục thúc đẩy lợi ích của họ trong các cuộc đàm phán sau Thế chiến I tại Hội nghị Hòa bình Paris. Những nỗ lực này cuối cùng dẫn đến việc Hội Quốc Liên tuyên bố vào ngày 23 tháng 2 năm 1921 rằng Galicia nằm ngoài lãnh thổ của Ba Lan, rằng Ba Lan không có ủy nhiệm thiết lập quyền kiểm soát hành chính tại quốc gia đó, và Ba Lan chỉ là thế lực quân sự chiếm đóng Đông Galicia, số phận của họ sẽ được quyết định bởi Hội đồng Đại sứ tại Hội Quốc Liên.

Sau một loạt các cuộc đàm phán tiếp theo, vào ngày 14 tháng 3 năm 1923, hội nghị quyết định rằng miền đông Galicia sẽ được sáp nhập vào Ba Lan "có tính đến việc Ba Lan đã công nhận rằng liên quan đến các điều kiện dân tộc học của phần phía đông Galicia hoàn toàn xứng đáng với vị thế tự trị của nó." Ngày hôm sau, chính phủ Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina giải tán. Chính phủ Ba Lan từ chối lời hứa trao quyền tự trị cho miền đông Galicia.

Các cường quốc Entente và vấn đề Đông Galicia

Hội nghị Hòa bình Paris phê chuẩn quyền quản lý lâm thời của Cộng hòa Ba Lan thứ hai trên lãnh thổ Đông Galicia vào ngày 25 tháng 6 năm 1919. Các quốc gia Entente và các cơ quan do họ chỉ định (Hội đồng Đại sứ, Hội đồng Hội Quốc Liên) công nhận Đông Galicia là lãnh thổ tranh chấp không thuộc về nhà nước Ba Lan cho đến ngày 14 tháng 3 năm 1923, theo đó chủ quyền sẽ được thực thi bởi các quốc gia Entente theo hiệp ước hòa bình với Áo. Entente cũng chưa bao giờ công nhận Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraine. Đối với lãnh thổ của miền đông Galicia, họ cố gắng đưa ra một giải pháp tạm thời, một ủy nhiệm lâu dài (25 năm) cho Ba Lan để quản lý Galicia, với lãnh thổ được trao quyền tự trị. Sau khi hết thời hạn ủy nhiệm, một cuộc trưng cầu dân ý được tiến hành. Mục đích chính trị của các quốc gia Entente vào thời điểm đó là bảo tồn lãnh thổ phía đông Galicia cho Bạch vệ Nga. Ba Lan phản đối những ý tưởng này, đồng thời theo đuổi chính sách thiết lập quyền quản lý của riêng mình trên lãnh thổ tranh chấp, hợp nhất nó vào nhà nước Ba Lan.

Sau khi củng cố quyền lực của Xô viết tại Nga, và việc khôi phục nước Nga phi Bolshevik trở nên không thể thực hiện được, Hội đồng Đại sứ đã công nhận chủ quyền của Cộng hòa Ba Lan thứ hai đối với lãnh thổ Đông Galicia vào ngày 15 tháng 3 năm 1923, với sự bảo lưu rằng Ba Lan đưa ra quy chế tự trị đối với lãnh thổ này, một đại diện thay thế là Đạo luật về Chính quyền tự quản cấp tỉnh tháng 9 năm 1922, nêu rõ trong chính tiêu đề của nó tính chất đặc biệt của lãnh thổ Đông Galicia trong nhà nước Ba Lan.

Sau một quyết định của Hội đồng Đại sứ, chính phủ lưu vong Tây Ukraina do Sydir Holubovych lãnh đạo tại Wien giải thể vào ngày 15 tháng 3 năm 1923, và hầu hết các thành viên của nó trở về Ba Lan, tích cực tham gia vào đời sống chính trị và xã hội của người Ukraina thiểu số tại Cộng hoà Ba Lan thứ hai.

Chính phủ

left|thumb| Từ ngày 22 đến ngày 25 tháng 11, các cuộc bầu cử diễn ra trên lãnh thổ do Ukraina kiểm soát để bầu ra Hội đồng Dân tộc Ukraine gồm 150 thành viên, sẽ đóng vai trò là cơ quan lập pháp. Yevhen Petrushevych là chủ tịch Hội đồng và là cựu thành viên của nghị viện Áo-Hung, tự động trở thành tổng thống của nước Cộng hòa. Cấp dưới của ông là Ban bí thư Nhà nước, có các thành viên bao gồm Kost Levytsky (chủ tịch ban bí thư và bộ trưởng tài chính của Cộng hòa), Dmytro Vitovsky (người đứng đầu lực lượng vũ trang), Lonhyn Tsehelsky (bộ trưởng nội vụ), và Oleksander Barvinsky (bộ trưởng giáo dục và các vấn đề tôn giáo), và những người khác. Quốc gia này về cơ bản có một hệ thống chính trị hai đảng, do Đảng Dân chủ Dân tộc Ukraina thống trị và đối thủ nhỏ hơn của họ là Đảng Cấp tiến Ukraina. Đảng Dân chủ Dân tộc cầm quyền trao một số ghế của họ cho các đảng nhỏ để đảm bảo rằng chính phủ đại diện cho một liên minh quốc gia rộng lớn. Về nền tảng nghề nghiệp của các thành viên hội đồng được xác định, khoảng 30% là luật sư, 22% là giáo viên, 14% là nông dân, 13% là linh mục, và 5% là công chức. Khoảng 28% có bằng tiến sĩ. chủ yếu là về pháp luật.

Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina quản lý một khu vực có dân số khoảng 4 triệu người trong phần lớn thời gian chín tháng tồn tại. Lviv đóng vai trò là thủ đô của Cộng hòa từ ngày 1 tháng 11 cho đến khi thành phố này bị mất về tay quân Ba Lan vào ngày 21 tháng 11, tiếp theo là Ternopil cho đến cuối tháng 12 năm 1918 và sau đó là Stanislaviv (Ivano-Frankivsk ngày nay) cho đến ngày 26 tháng 5 năm 1919. Sau Thế chiến I, Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina duy trì nguyên vẹn sự ổn định của chính quyền Áo trước chiến tranh, sử dụng các chuyên gia người Ukraina và Ba Lan. Ranh giới của các huyện và cộng đồng vẫn giữ nguyên như thời Đế quốc Áo-Hung. Các tòa án huyện, khu vực và địa phương tiếp tục hoạt động như trước đây khi khu vực còn là một phần của Áo, cũng như các trường học, dịch vụ bưu điện, điện báo và đường sắt. Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina thông qua luật tịch thu các điền trang rộng lớn từ các địa chủ tư nhân và phân chia đất này cho nông dân không có ruộng đất. Ngoài những trường hợp hạn chế đó, quyền sở hữu tư nhân được cho là cơ bản và việc trưng thu đất đai bị cấm. Điều này phân biệt các chính sách của Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina với các chính sách của chính phủ Ukraina xã hội chủ nghĩa có trụ sở tại Kyiv. Vào tháng 11 năm 1918, một quyết định đã được đưa ra để bao gồm các ngoại trưởng cấp nội các về các vấn đề người Ba Lan, Do Thái và Đức. Vào ngày 15 tháng 2 năm 1919, một đạo luật đã được thông qua để xác định tiếng Ukraina trở thành ngôn ngữ nhà nước. Tuy nhiên, theo luật này, thành viên của các dân tộc thiểu số có quyền giao tiếp với chính phủ bằng ngôn ngữ của họ.

Đối xử với dân cư Ba Lan

Nhà sử học Rafał Galuba viết rằng người Ba Lan bị chính quyền Tây Ukraina cho là công dân hạng hai. Sau ngày 1 tháng 11, một số thành viên của các hiệp hội Ba Lan đã bị chính quyền Tây Ukraina bắt giữ hoặc quản thúc; số phận tương tự đang chờ đợi các quan chức từ chối tuyên thệ trung thành với nhà nước Ukraina. Vào ngày 6 tháng 11, chính quyền Tây Ukraina ban hành lệnh cấm báo chí và ấn phẩm của Ba Lan phát hành tại Lviv và các nhà in bị phá hủy (Người Ba Lan cũng cấm các ấn phẩm của Ukraina tại các vùng lãnh thổ mà họ kiểm soát) Chính quyền Tây Ukraina cố gắng đe dọa người dân Ba Lan trong Lviv bằng cách gửi binh lính và xe tải vũ trang xuống đường và giải tán đám đông có thể chuyển thành tuần hành của người Ba Lan. Christoph Mick tuyên bố rằng ban đầu, chính phủ Tây Ukraina từ chối bắt con tin Ba Lan nhưng khi sự kháng cự cả dân sự và quân sự của người Ba Lan chống lại các lực lượng Ukraina ngày càng tăng, thường dân Ba Lan bị tổng tư lệnh Ukraina đe dọa hành quyết tập thể vì bị cáo buộc tấn công và bắn vào binh sĩ Ukraina. Đáp lại, phía Ba Lan đề xuất một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột và lực lượng dân quân chung Ba Lan-Ukraine giám sát an toàn công cộng trong thành phố. Tại Brzuchowice, những công nhân đường sắt Ba Lan từ chối tuân theo mệnh lệnh làm việc của Ukraina đã bị hành quyết.

Vào ngày 29 tháng 5 năm 1919, tổng giám mục Jozef Bilczewski gửi một thông điệp tới Ignacy Paderewski đang tham dự Hội nghị Hòa bình tại Paris, yêu cầu giúp đỡ và cáo buộc người Ukraina sát hại dã man các linh mục và thường dân Ba Lan.

Người Ba Lan không ủng hộ chính quyền Tây Ukraina và thành lập một phong trào kháng chiến ngầm như tham gia vào các hành động phá hoại. Các điều kiện trong các trại này bao gồm trại bằng gỗ không có hệ thống sưởi, thiếu giường và thiếu chăm sóc y tế, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh thương hàn cao. Thương vong ước tính tại các trại này bao gồm gần 900 người trong một trại tại Kosiv, theo nhiều nguồn khác nhau từ 300 đến 600 (chết vì bệnh thương hàn) tại Mikulińce, 100 tại Kołomyja, và 16 đến 40 tại Brzeżany, do các trại không được sưởi ấm khi có nhiệt độ −20 độ C. Các trường hợp cướp bóc, đánh đập, tra tấn hoặc bắn chết tù nhân Ba Lan đã được báo cáo.

Theo nhà sử học Christopher Mick, chính phủ Ukraine nói chung đối xử với người dân Ba Lan dưới sự kiểm soát của mình không tệ hơn chính phủ Ba Lan đối xử với người Ukraina dưới sự kiểm soát của họ. Mick thừa nhận rằng phía Ukraina trong cuộc bao vây Lviv đã ngừng quan tâm đến nguồn cung cấp cho thành phố và cố gắng làm gián đoạn nguồn cung cấp nước cho thành phố. Hỏa lực pháo binh dữ dội của họ đã giết chết nhiều thường dân, kể cả phụ nữ và trẻ em. Từ tháng 11 năm 1918, vị trí của những người dân tộc Ba Lan trong nền công vụ được lấp đầy bởi một số lượng lớn người Do Thái sẵn sàng ủng hộ nhà nước Ukraina. Người Do Thái từng là thẩm phán và cố vấn pháp lý tại các tòa án tại Ternopil, Stanislaviv và Kolomyia. Người Do Thái cũng có thể thành lập các đơn vị cảnh sát của riêng họ, và tại một số địa điểm, chính phủ Ukraina giao cho lực lượng dân quân Do Thái địa phương chịu trách nhiệm duy trì an ninh và trật tự. Ở các vùng Sambir và Radekhiv, khoảng một phần ba lực lượng cảnh sát là người Do Thái. Hầu hết những người Do Thái hợp tác và phục vụ trong quân đội Tây Ukraina đều là những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái.

Thư viện ảnh

Tập tin:West-Ukraine 1918.jpg|Bản đồ các khu vực mà Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina tuyên bố chủ quyền Tập tin:Galicia 1897 1.jpg|Các tuyến đường sắt của Galicia trước năm 1897 Tập tin:Ukrainian State 1918.5-11.png|Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina năm 1918 Tập tin:PBW March 1919.svg|Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina năm 1919
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina** hoặc **Cộng hoà Dân tộc Ukraina** (; viết tắt ), trong một khoảng thời gian tồn tại gọi là **tỉnh miền Tây của Cộng hoà Nhân dân Ukraina** (
**Cộng hòa Nhân dân Ukraina** là một nhà nước tồn tại ngắn ngủi tại Đông Âu. Hội đồng Trung ương Ukraina được bầu ra vào tháng 3 năm 1917 do kết quả từ Cách mạng
**Cộng hòa Nhân dân Lugansk** (tiếng Nga: _Луга́нская Наро́дная Респу́блика_, phiên sang chữ Latinh: _Luganskaya Narodnaya Respublika_) là một nước Cộng hòa tự tuyên bố độc lập vào ngày 8 tháng 4 năm 2014, lãnh
**Cộng hòa Hutsul** là một quốc gia tồn tại trong thời gian ngắn ngủi được hình thành do hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nước cộng hòa được tuyên bố thành lập
**Cộng hòa Nhân dân Ba Lan** (1952–1989), trước đây là **Cộng hòa Ba Lan** (1944–1952), là một quốc gia ở Trung Âu tồn tại như tiền thân của Cộng hòa Ba Lan dân chủ hiện
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
**Cộng hòa Nhân dân Donetsk** (tiếng Nga: _Донецкая народная республика_, phiên sang chữ Latinh: _Donetskaya Narodnaya Respublika_) là một nước Cộng hòa tự xưng, tuyên bố độc lập vào ngày 7 tháng 4 năm 2014.
nhỏ|Các quốc gia sử dụng danh xưng _cộng hòa nhân dân_: **Cộng hòa nhân dân** () là tên gọi của một số nhà nước hiện nay hoặc trước đây theo chủ nghĩa Marx–Lenin, và của
**Chiến tranh giành độc lập Ukraina** là một cuộc xung đột quân sự có sự tham gia của nhiều bên từ năm 1917 đến năm 1921, chứng kiến sự hình thành và phát triển của
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Chiến tranh Ukraina–Xô viết** Vào khoảng thời gian này, quân Bolshevik bắt đầu từ Nga xâm chiếm Ukraina. Các đơn vị quân đội Nga từ Kharkov, Moskva, Minsk và Hạm đội Baltic xâm chiếm Ukraina.
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Galicia** (_SSR Galacia_) tồn tại từ ngày 8 tháng 7 năm 1920 đến ngày 21 tháng 9 năm 1920 trong thời gian Chiến tranh Ba Lan-Xô viết.
**Tây Ukraina** () là một thuật ngữ địa lý và lịch sử tương đối được dùng để chỉ các vùng lãnh thổ phía tây của Ukraina. Thành phố lớn nhất là Lviv (72,5 vạn dân).
**Ukraina** (phát âm tiếng Việt: _U-crai-na_; , ) là một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu, giáp với Nga về phía Đông, Belarus về phía Bắc, Ba Lan, Slovakia và Hungary về phía Tây,
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina** (, УРСР; УССР), viết tắt là **CHXHCNXV Ukraina** và còn gọi là **Ukraina Xô viết**, là một trong các nước cộng hòa cấu thành của Liên
**Quốc gia Ukraina** (), đôi khi cũng gọi là **Quốc gia hetman thứ hai** (), là một chính phủ chống Bolshevik từng tồn tại với lãnh thổ chiếm hầu hết Ukraina hiện nay (ngoại trừ
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
**Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Byelorussia** (phiên âm tiếng Việt: "Bê-lô-rút-xi-a", , , viết tắt _БССР_, _Bielorusskaja Sovietskaja Socialistitchieskaja Riespublika_, BSSR hoặc đôi khi Byelorussia còn gọi là **Belorussia**) là một trong
**Cộng hòa Tự trị Krym** (, chuyển tự: _Avtonomna Respublika Krym_; , chuyển tự: _Avtonomnaya Respublika Krym_; , Къырым Мухтар Джумхуриети) là một nước cộng hòa tự trị thuộc Ukraina nằm trên bán đảo cùng
**Cộng hòa Xô viết Odessa** là một nước Cộng hòa Xô viết được thành lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1918. Các cơ quan chủ quản, Hội đồng ủy viên nhân dân, được thành
**Danh sách các nước cộng hòa** là danh sách liệt kê các quốc gia có chính phủ theo thể chế cộng hòa. ## Các quốc gia cộng hòa theo từng thời kỳ ### Cổ đại
**Công quốc Bukovina** (; ; ) là một lãnh địa cấu thành của Đế quốc Áo từ năm 1849 và một lãnh địa hoàng gia Cisleithania của Áo-Hung từ 1867 đến 1918. ## Tên gọi
nhỏ|Các binh sĩ của [[Quân đội nhân dân Việt Nam đang duyệt binh trong bộ quân phục mới.]] **Hiện đại hóa** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu theo
**Cộng hòa Krym** (chuyển tự từ tên bản xứ, đọc là **Cộng hòa Crưm**; , chuyển tự: _Respublika Krym_; tiếng Tatar Krym: Къырым Джумхуриети, _Qırım Cumhuriyeti_; , chuyển tự: _Respublika Krym_) là một bộ phận
[[Hình:Etnos0.gif|thumb|Bản đồ dân tộc của tỉnh Zakarpattia năm 2001. ]] **Người Hungary tại Ukraina** (, , tr. _uhortsi v Ukraini_) có số lượng 156.600 người theo điều tra nhân khẩu Ukraina năm 2001 và là
Dưới đây là danh sách các loại cờ từng được dùng làm cờ hiệu của các tổ chức chính trị - xã hội cấp quốc gia tại Ukraina trong lịch sử, được các tài liệu
thumb|Ukraina Dnepr, thế kỷ 17–18 Thuật ngữ **Ukraina Dnepr** (: "vùng đất trên Dnepr"), thường chỉ lãnh thổ nằm hai bờ trung du sông Dnepr (Dnipro) . Tên gọi trong tiếng Ukraina bắt nguồn từ
**Sakha**, còn được gọi là **Yakutia** (; ), tên chính thức **Cộng hòa Sakha** (; , _Saxa Öröspüübülükete_, ) là một chủ thể liên bang của Nga (một nước Cộng hòa). Nước này có dân
**Tây Belorussia** hoặc **Tây Belarus** (; ; ) là một khu vực lịch sử của Belarus hiện đại, từng thuộc về Cộng hòa Ba Lan thứ hai trong giai đoạn giữa hai thế chiến. Trong
thumb|Bản đồ các quốc gia tuyên bố mình theo lý tưởng cộng sản dưới đường lối [[Chủ nghĩa Marx-Lenin hoặc Tư tưởng Mao Trạch Đông, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong lịch sử (lưu ý
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Moldavia** (, **') gọi tắt là **Moldova tự trị Xô viết''' là cộng hòa tự trị của Liên Xô, một phần của Cộng hòa Xã
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Armenia** ( _Haykakan Sovetakan Soc’ialistakan Hanrapetut’yun_; _Armjanskaja Sovetskaja Sotsialističeskaja Respublika_), cũng viết tắt là **CHXHCNXV Armenia** hay **Armenia Xô viết**, là một trong 15 nước cộng hòa
Cộng hòa Séc là một quốc gia dân chủ mới nổi ở Đông Âu, có nền kinh tế công nghiệp phát triển. Nó là một trong những nền kinh tế ổn định nhất và thịnh
**Liên Xô chiếm đóng Hungary**, xảy ra sau khi nước này bị Liên Xô đánh bại trong thế chiến thứ hai, kéo dài 45 năm, nguyên cả thời kỳ chiến tranh lạnh. Cuộc chiếm đóng
**Oleksandr Vladimirovich Zakharchenko** (, ; 26 tháng 6 năm 1976 - 31 tháng 8 năm 2018) là một nhà lãnh đạo ly khai, từng là là người đứng đầu nhà nước và Thủ tướng Cộng
**Người Ukraina** (, ) là một dân tộc Đông Slav bản địa tại Ukraina. Bản ngữ của người Ukraina là tiếng Ukraina. Đa số người Ukraina là tín đồ Chính thống giáo Đông phương, một
**Quan hệ Nga–Ukraina** chuyển thành quan hệ liên quốc gia sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Quan hệ ngoại giao giữa Liên bang Nga và Ukraina độc lập được thiết lập vào
Ngày 24 tháng 2 năm 2022, Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraina. Chiến dịch này bắt đầu sau một thời gian tập trung lực lượng cùng sự công nhận độc lập
**Bất ổn tại Ukraina năm 2014** là sự kiện xung đột xảy ra ở miền đông nam Ukraina hồi tháng 2 năm 2014, tiếp diễn sau phong trào Euromaidan và vụ lật đổ chính phủ
thumb|Tỉnh Zakarpattia (màu đậm), phía tây Ukraina. thumb|Huy hiệu của Karpat-Ukraina, hiện được [[tỉnh Zakarpattia sử dụng.]] **Ruthenia Karpat** () là một vùng lịch sử trên ranh giới giữa Trung và Đông Âu, hiện nay
**Tổng thống Ukraina** () là nguyên thủ quốc gia của Ukraina. Tổng thống thay mặt cho Ukraina về đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại của nhà nước và tiến hành đàm phán, ký
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2022, Liên bang Nga, trong khi đang xâm lược Ukraina, đã tuyên bố sáp nhập bốn oblast (tỉnh) của Ukraina—Luhansk, Donetsk, Zaporizhzhia, và Kherson. Bốn khu vực bị sáp
**Người Ukraina tại Nga** (, ) tạo thành nhóm người di cư lớn nhất của người Ukraina. Năm 2010, 1,9 triệu người Ukraina sống ở Nga, chiếm hơn 1,4% tổng dân số Liên bang Nga
thumb|Các thi thể trong trang phục dân sự, được Ukraine tuyên bố là bị bắn bởi binh sĩ Nga, nằm trên một con phố ở Bucha. Tay của một trong số họ bị trói sau
**Galicia** (, ; , ) là một khu vực lịch sử và địa lý trải dài tại nơi ngày nay là miền đông nam Ba Lan và miền tây Ukraina, một thời gian dài là
**"Shche ne vmerla Ukraina"** (tiếng Ukraina: Ще не вмерла Україна tức là **"Ukraina bất diệt"**) là quốc ca của Ukraina. Nhạc sĩ Mikhailo Verbytsky, một người theo đạo Thiên chúa và là cha cố, đã
Vào tháng 3 và tháng 4 năm 2021, Nga bắt đầu điều hàng nghìn quân nhân và thiết bị gần biên giới với Ukraina và trên bán đảo Crimea đã bị Nga sáp nhập, là
**Chiến tranh Nga – Ukraina** là một cuộc xung đột vũ trang đang diễn ra bắt đầu vào tháng 2 năm 2014, chủ yếu liên quan đến Nga và các lực lượng thân Nga, và
Dàn nhân vật phụ trong anime/manga **_Hetalia: Axis Powers_** cực kì hùng hậu. Sau đây là những quốc gia hay được nhắc đến nhất ngoài khối Phát xít và Đồng Minh. Phần giới thiệu sẽ
**Kost Antonovych Levytsky** (; 18 tháng 11 năm 1859 – 12 tháng 11 năm 1941) là một chính trị gia người Ukraina. Ông là lãnh đạo của Liên minh Dân chủ Quốc gia Ukraina tại