✨Liên bang Ba Lan và Lietuva

Liên bang Ba Lan và Lietuva

Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva (, ) hay Liên bang Ba Lan – Litva hay Thịnh vượng chung Ba Lan – Litva là một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân nhất Châu Âu thế kỷ 16 và 17. Trong thế kỷ 15-16, nhà nước này liên tiếp bành trướng lãnh thổ, xâm chiếm và đô hộ nhiều vùng đất của người Đông Slav (mà ngày nay thuộc Nga, Ucraina và Belarus), có thời điểm họ còn đem quân bao vây Moskva và suýt nữa đã xâm chiếm được thủ đô của nước Nga. Tại thời điểm lớn mạnh nhất của nó vào đầu thế kỷ 17, nhà nước này có lãnh thổ rộng đến

Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva chính thức được thành lập theo liên minh Lublin vào tháng 7 năm 1569, nhưng trên thực tế vương quốc Ba Lan đã hợp nhất với Đại công quốc Lietuva từ năm 1386, khi nữ vương Ba Lan Hedwig thành hôn với đại vương công Lietuva Jogaila – ông này được tấn phong làm vua Władysław II Jagiełło, đồng trị vì Ba Lan với vợ mình.

Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva có đặc trưng độc nhất so với các quốc gia cùng thời vì hệ thống chính trị của nó đặc trưng bởi sự kiểm soát nghiêm ngặt đối với quyền lực của nhà vua. Những sự kiểm soát này được bảo đảm tồn tại bởi một nghị viện (Sejm) do các quý tộc (szlachta) điều khiển. Đặc điểm của chế độ này là tiền thân của những khái niệm về chế độ dân chủ, quân chủ lập hiến, liên bang hiện đại. Hai quốc gia cấu thành liên bang là ngang hàng nhau, tuy nhiên Ba Lan có ảnh hưởng lớn hơn hẳn trong liên bang. Một đặc điểm nữa của Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva là sự đa dạng về sắc tộc và sự khoan dung tôn giáo hiếm thấy, mặc dù mức độ khoan dung này thay đổi theo thời gian. Sự khoan dung này bị suy giảm đáng kể sau sự kiện gọi là Trận đại hồng thủy (Tiếng Ba Lan: Potop), một thời kỳ hỗn loạn do cuộc xâm lăng của Đế quốc Thụy Điển gây ra cho Ba Lan.

Sau nhiều thập kỷ của quyền lực và lãnh thổ rộng lớn, Nhà nước Thịnh vượng chung đi vào thời kỳ suy thoái kéo dài. Quân đội và kinh tế suy giảm, sự suy yếu dần của Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva dẫn đến sự phân chia nó giữa các lân bang hùng mạnh gồm Áo, Phổ và Nga vào cuối thế kỷ 18. Vào năm 1772, Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva yếu đuối bị mất 1/3 lãnh thổ trong cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất. Trong khoảng thời gian ngắn trước khi bị xóa sổ, thịnh vượng chung đã cố gắng thông qua các cải cách lớn và ban hành hiến pháp ngày 3 tháng 5 năm 1791. Văn bản được xem như là hiến pháp lâu đời thứ hai trong lịch sử hiện đại.. Đến năm 1795, Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva hoàn toàn tan rã trong cuộc phân chia Ba Lan lần thứ ba.

Tên gọi

Tên gọi chính thức của thực thể này là Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva (, , ). Nó được nhắc đến trong các tài liệu trước thế kỷ 18 bằng tên Tiếng La Tinh là Regnum Poloniae Magnusque Ducatus Lithuaniae. Từ thế kỷ 17 trở đi nó thường được nhắc đến như Cộng hòa Ba Lan (, ) trong thư từ ngoại giao. Người dân của quốc gia này thường gọi tên của đất nước mình là Rzeczpospolita (cộng hòa) (, tiếng Ruthenia: Рѣч Посполита, ). Những người nước ngoài chỉ thường gọi nó là Ba Lan mặc dù Ba Lan chỉ là một thành viên trong liên minh này.

Thuật ngữ phổ biến gần đây trong tiếng Ba Lan "Rzeczpospolita Obojga Narodów" (Thịnh vượng chung/ Cộng hòa của hai quốc gia) mới chỉ xuất hiện vào thế kỷ 20.

Lịch sử

Ba Lan và Litva đã trải qua những cuộc chiến tranh và liên minh với nhau trong suốt thế kỷ 14 và đầu thế kỷ 15. Vài hiệp ước liên minh đã từng được thiết lập rồi xóa bỏ trước khi thành lập Liên minh Lublin năm 1569 (liên minh Krakow và Vilna, liên minh Krewo, liên minh Vilnius và Radom, liên minh Grodno, liên minh Horodlo). Hiệp ước liên minh này là thành tựu đáng kể của Zygmunt II của Ba Lan, vị vua cuối cùng của triều đại Jagiello. Zygmunt tin rằng có thể duy trì được triều đại của mình bằng cách chấp nhận việc vua của đất nước được bầu ra chứ không phải theo truyền thống cha truyền con nối. Cái chết của ông năm 1572 được nối tiếp bởi thời kỳ ngắt quãng ba năm, trong thời gian đó đã có những điều chỉnh để cho ra đời một hệ thống hiến pháp, những sự điều chỉnh này làm tăng đáng kể quyền lực của giới quý tộc Ba Lan và thiết lập một chế độ bầu chọn Quân Vương thực sự.

Nước này đạt đến thời kỳ hoàng kim của nó vào đầu thế kỷ 17. Nghị viện có quyền lực lớn được kiểm soát bởi những quý tộc. Những người đã miễn cưỡng dây dựa vào cuộc chiến tranh Ba mươi năm. Phần nhiều sự trung lập này đã miễn cho đất nước khỏi sự tàn phá của những cuộc xung đột chính trị tôn giáo đã tàn phá hầu hết châu Âu thời đó. Nước này đã có thể có được khả năng chống lại những địch thủ của mình là Thụy Điển, Nga và những chư hầu của Đế quốc Ottoman. Không những vậy, nó bắt đầu bành trướng thành công trong những cuộc tấn công chống lại những quốc gia láng giềng. Trong một số cuộc xâm lược Nga, Ba Lan-Litva đã xâm chiếm toàn bộ Ucraina và Belarus, thậm chí tiến sát tới thành Moskva và bao vây nó từ 27 tháng 9 năm 1610 đến 4 tháng 11 năm 1612, cho tới khi phải rút lui do cuộc kháng cự quyết liệt của người Nga dưới thời Sa hoàng Mikhail I, cuối cùng cả 2 bên phải ký Hiệp ước Polyanovka vào năm 1634, khôi phục lại hiện trạng trước chiến tranh, trong đó người Nga trả cho liên bang 20.000 ruble vàng, còn Władysław IV Vasa của liên bang thì từ bỏ yêu sách ngai vàng Sa quốc Nga.

nhỏ|trái|Lãnh thổ năm 1526 nhỏ|trái|Lãnh thổ năm 1582 nhỏ|trái|Lãnh thổ năm 1648

Sức mạnh của nước này bắt đầu suy yếu sau hàng loạt cuộc tấn công trong những thập kỷ tiếp theo. Những cuộc khởi nghĩa lớn của người Cossack ở phía đông nam bắt đầu từ năm 1648 đã làm suy yếu dần thịnh vượng chung này. Sự suy yếu còn là kết quả của những yêu sách đòi độc lập từ Ukraina, dưới các điều khoản của hiệp ước Pereyaslav được bảo hộ bởi Nga hoàng. Ảnh hưởng của Nga với Ukraina dần thay thế Ba Lan. Cuộc tấn công khác là cuộc xâm lược của người Thụy Điển năm 1655, được hỗ trợ bởi quân của công tước Transilvania György Rákóczi II và tuyển hầu tước Brandenburg Friedrich Wilhelm I. Và sự kiện mang tên Trận đại hồng thủy là kết quả của cuộc xâm lăng của Thụy Điển đối với Ba Lan-Litva.

nhỏ|phải|Vua [[Jan III Sobieski trong trận Viên ngày 12 tháng 9 năm 1683 họa phẩm của Jan Matejko]] Cuối thế kỷ 17, vua Ba Lan-Litva Jan III Sobieski đã liên kết với hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh Leopold I của Thánh chế La Mã để chống lại sự bành trướng vào Trung Âu của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1683, quân Thổ bao vây uy hiếp kinh đô Viên của Đế quốc La-Đức. Jan kéo quân sang Viên và hợp lực với quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh đánh tan quân Thổ trong trận Kahlenberg, làm thất bại hoàn toàn ý đồ thôn tính Viên của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả trận Kahlenberg được xem là bước ngoặt cuối cùng trong cuộc xung đột kéo dài 250 năm giữa các nước phong kiến phương Tây với người Thổ Nhĩ Kỳ. Chiến thắng Kahlenberg cùng nhiều nỗ lực khác của người Ba Lan-Litva trong hàng thế kỷ chiến đấu chống quân Thổ đã khiến họ được thế giới Ki-tô giáo phong tặng danh hiệu "Thành đồng của Cơ Đốc giáo" (Antemurale Christianitatis). Trong 16 năm tiếp theo, Ba Lan-Litva đã tham gia Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ và góp phần đánh bật người Thổ về mạn nam sông Donau, khiến họ vĩnh viên không bao giờ uy hiếp Trung Âu được nữa.

nhỏ|trái|Lãnh thổ năm 1789-1792

Đến thế kỷ 18, sự bất ổn về chính trị đã làm cho Ba Lan đi đến bờ vực của sự hỗn loạn. Nội bộ quốc gia trở nên lục đục, dễ bị các quốc gia khác chi phối. Một cuộc nội chiến giữa nhà vua và quý tộc đã nổ ra vào năm 1715, vua Nga Pyotr I của Nga đã đứng ra hòa giải và hành động đó càng làm suy yếu hơn nữa Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva. Quân đội Nga hiện diện tại Nghị viện Im lặng năm 1717, điều này đã buộc Ba Lan giới hạn quân đội của mình ở mức 24 nghìn người và tái khẳng định quyền tự do phủ quyết (liberum veto), trục xuất quân đội của Tuyển hầu tước Sachsen khỏi Ba Lan. Cuối cùng Pyotr I đã thành công trong việc đưa Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva trở thành một chư hầu của nước Nga. Dưới triều vua Louis XV của Pháp, nước Pháp toan tính khôi phục lại quyền bảo hộ Ba Lan, và vua Pháp đã tôn người cha vợ của mình là Stanisław I Leszczyński làm vua Ba Lan.

Nhưng trong cuộc Chiến tranh Kế vị Ba Lan, liên quân Nga - Áo đánh bại quân Pháp. Đến giữa thế kỷ 18, tình hình chính trị châu Âu diễn ra thất thường. Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, giữa liên quân Nga - Áo - Pháp - Thụy Điển - Sachsen..., Quân đội Nga thường dùng Ba Lan làm bàn đạp cho các chiến dịch của họ. Sau cuộc chiến tranh này, việc vua Ba Lan là August III (1763) lại dấy lên tranh cãi về việc kế vị ngai vàng Ba Lan. Vua Friedrich II của Phổ không để yên cho Áo và Nga đột chiếm Ba Lan, trong bối cảnh châu Âu đã kiệt quệ với cuộc Chiến tranh Bảy năm và hai nước Nga, Áo có thể lợi dụng tình hình vô chính phủ của Ba Lan. Ông ta lo sợ Nữ hoàng Nga là Yekaterina II sẽ hoàn tất công cuộc sáp nhập Ba Lan vào Nga qua việc đưa một người tình cũ của bà là nhà quý tộc người Ba Lan tên là Stanisław Antoni Poniatowski lên làm Quốc vương Ba Lan, tức vua Stanisław II August Poniatowski. Một khi Đế quốc Nga trở nên quá hùng mạnh, họ có thể chiếm luôn vùng đất Đông Phổ do vùng đất này bị ngăn cách với phần đất còn lại của chế độ quân chủ nước Phổ. Nước Nga giành được một phần đất rộng lớn hơn hẳn Phổ, và nước Áo giành được một phần đất đông dân hơn hẳn Phổ, nhưng nước Phổ nhận được lợi thế nhất. Vùng Đông Phổ không còn bị cô lập, vua Phổ mở được những vùng biên cương chiến lược của đất nước đến sông Wisla và sông Netze.

nhỏ|trái|Hiến pháp ngày 3 tháng 5 năm 1791 họa phẩm của Jan Matejko

Đến các thập niên 1780 - 1790, trong khi nước Nga lâm chiến với Thổ Nhĩ Kỳ và Thụy Điển, nhân dân Ba Lan nhận thấy cơ hội giành lại độc lập cho mình. Vua nước Phổ là Friedrich Wilhelm II hứa sẽ giúp đỡ phong trào Cách mạng Ba Lan, và lời hứa hẹn này đã khuyến khích dân tộc Ba Lan ban hành Hiến pháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1791, bãi bỏ quyền "tự do phủ quyết" và tuyên bố thực hiện chế độ quân chủ cha truyền con nối. Nhưng sau đó, Triều đình Nga ký kết hòa ước với Triều đình Thổ Nhĩ Kỳ, quân Nga tiến đánh Ba Lan. Quân khởi nghĩa Ba Lan chống cự yếu ớt. Cùng lúc, phong trào Cách mạng Pháp bùng nổ, do không muốn nước Phổ phải đương đầu với cả Pháp lẫn Nga, vua Friedrich Wilhelm II không những không giúp Ba Lan, mà lại còn xua quân chinh phạt nước này. Để khuyến khích Triều đình Phổ chiến đấu mãnh liệt với Cách mạng Pháp, và để ngăn ngừa Triều đình Phổ giúp đỡ Ba Lan, Triều đình Nga thỏa thuận chia cắt Ba Lan với Triều đình Phổ, và đó là cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ hai (1793)..

Tuy nhiên, vào Mùa Xuân năm sau, nhân dân Ba Lan lại vùng lên khởi nghĩa. Họ giết chết hoặc bắt sống binh lính Nga đồn trú ở kinh đô Warsawa. Hay tin, Quốc vương Friedrich Wilhelm II xua Quân đội Phổ đến đánh bại quân khởi nghĩa Ba Lan và đánh úp Cracow, nhưng phải rút khỏi kinh thành Warsawa để đối mặt với một cuộc bạo loạn ở miền Nam Phổ. Trong khi đó, quân tinh nhuệ Nga và Áo cũng xâm lược Ba Lan, dưới sự chỉ huy của Nguyên soái Aleksandr Vasilyevich Suvorov và viên tướng Ivan Ivanovitch Hermann von Fersen. Để ngăn cách hai đạo quân Nga của Suvorov và Fersen liên kết với nhau, quân khởi nghĩa Ba Lan tấn công quân Nga của Fersen, nhưng bị đánh tan tác và người thủ lĩnh của họ bị bắt làm tù binh. Quân Nga của Nguyên soái Suvorov cũng chiếm đóng thành phố Praha. Cuộc chiến đấu kết thúc với sự kiện kinh đô Warsawa thất thủ và Stanisław II thoái vị, ông mất năm 1798 tại kinh đô Sankt-Peterburg của Nga. Cuối cùng, cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ ba (1795), cũng là cuộc chia cắt Ba Lan lần cuối cùng được thực hiện giữa ba nước Phổ, Áo và Nga. Kinh thành Warsawa rơi vào tay Vương quốc Phổ trước khi được trao lại cho người Nga, nước sau đó sẽ đánh chiếm nhiều đất nhất của thịnh vượng chung cũ. Năm 1918 nền độc lập của Ba Lan và Litva mới được khôi phục lại hoàn toàn sau khi Đế quốc Nga và Đế quốc Đức sụp đổ.

Tổ chức nhà nước và chính trị

Quyền tự do vàng

nhỏ|trái|Thời kỳ hoàng kim của nền cộng hòa. Cuộc bầu chọn vua Ba Lan năm 1573 họa phẩm của Jan Matejko. Học thuyết chính trị của Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva là: nhà nước của chúng ta là một nền cộng hòa dưới nhiệm kỳ cai trị của nhà vua. Quan chưởng ấn Jan Zamoyski đã khẳng định lại học thuyết này khi ông nói rằng: Rex regnat et non gubernat ( nhà vua ngự trị nhưng không cai trị). Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva cho phép lập một nghị viện, Sejm. Nhà vua có nghĩa vụ tôn trọng các quyền công dân được ghi rõ trong các điều luật của vua Henry cũng như trong Pacta conventa (những thỏa thuận phải tán thành) đã được đàm phán vào lúc bầu chọn ông.

Quyền lực của nhà vua bị giới hạn vì sự chi phối của số đông tầng lớp quý tộc. Mỗi vị vua mới phải ký vào những điều luật của vua Henry, thứ trở thành nền tảng của hệ thống chính trị Ba Lan(và bao gồm cả những cam kết gần như chưa từng có đối với sự khoan dung tôn giáo). Theo thời gian, các điều luật của vua Henry đã hợp nhất với Pacta conventa trở thành những cam kết rõ ràng mà vị vua mới được bầu phải chấp nhận. Từ thời điểm đó trở đi, nhà vua thực sự trở thành một cộng sự với giới quý tộc và luôn bị giám sát bởi một nhóm nghị sĩ. Sejm có quyền phủ quyết nhà vua trong những vấn đề quan trọng, bao gồm cả quyền lập pháp, những vấn đề đối ngoại, tuyên bố chiến tranh và cả hệ thống thuế (những thay đổi đối với các loại thuế hiện hành hoặc tiền thu được từ một loại thuế mới).

Nền tảng hệ thống chính trị của Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva, quyền tự do vàng(Tiếng Ba Lan: Zlota Wolność, một thuật ngữ được sử dụng từ năm 1573 trở đi) bao gồm:

Tự do bầu chọn vua bởi tất cả quý tộc muốn tham gia. Sejm tức nghị viện của liên bang, Nhà vua phải tổ chức hai năm một lần. Pacta conventa (Tiếng La Tinh), "Những thỏa thuận phải tán thành" Đàm phán với vị vua mới được bầu, Bao gồm cả một dự luật về các quyền ràng buộc lên nhà vua xuất phát từ các điều luật của vua henry trước đó. Rokosz (quyền nổi dậy) là quyền của szlachta để tạo ra một cuộc nổi dậy hợp pháp chống lại một vị vua vi phạm sự bảo đảm các đặc quyền của szlachta. Liberum veto (Tiếng La Tinh) Quyền của một nghị sĩ trong Sejm để chống lại một phán quyết trước số đông trong một kỳ họp Sejm. Những tuyên bố tự do phủ quyết như vậy sẽ làm vô hiệu hóa tất cả các đạo luật định thông qua trong kỳ họp đó, trong thời kỳ khủng hoảng vào nửa sau thế kỷ 17, các quý tộc Ba Lan có khả năng sử dụng cả quyền tự do phủ quyết tại Sejmik (nghị viện địa phương). Konfederacja, quyền thành lập một tổ chức thông qua quyền lực để nhắm đến một mục tiêu chính trị chung.

Ba khu vực của Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva được hưởng quyền tự trị. Mỗi Voivodship (đơn vị hành chính của Ba Lan-Litva tương đương với tỉnh) có một nghị viện riêng (Sejmik) để thực hiện các quyền hạn chính trị, bao gồm cả lựa chọn đại diện đến Sejm quốc gia và giao cho người đại diện các chỉ dẫn cụ thể để biểu quyết tại Sejm. Đại công quốc Lietuva có quân đội, ngân khố riêng và thành lập hầu hết các chính quyền khác của mình.

Quyền tự do vàng tạo ra một nhà nước đặc biệt trong thời đại của nó. Mặc dù có phần tương tự với những chế độ chính trị tồn tại ở các thành bang cùng thời như cộng hòa Venezia. Điều thú vị là cả hai nhà nước này đều được gọi là nước cộng hòa thanh bình nhất. Vào thời điểm hầu hết các quốc gia châu âu đều tập trung vào chế độ quân chủ chuyên chế, chiến tranh giữa các triều đại và tôn giáo. Duy nhất Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva thử nghiệm với mô hình về sự phân quyền, liên minh và liên bang, nền dân chủ, sự khoan dung tôn giáo và thậm chí cả chủ nghĩa hòa bình. Sejm thường sử dụng quyền phủ quyết trong các cuộc chiến tranh được xem như một ví dụ về học thuyết hòa bình dân chủ.

Hệ thống chính trị đặc biệt so với thời đại của nó xuất phát từ sự thắng lợi của tầng lớp quý tộc szlachta trước những tầng lớp xã hội khác và trước chế độ quân chủ. Theo thời gian, Szlachta đã tích lũy đủ các đặc quyền điều mà không một vị vua nào có thể hi vọng đánh đổ được sự nắm quyền của szlachta. Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva có thể được miêu tả như một sự pha trộn của:

Liên minh và liên bang, Vì tồn tại quyền tự trị rộng rãi của các khu vực. Song điều đó trở thành khó khăn khi muốn kêu gọi một trong số các liên minh hoặc liên bang trong thịnh vượng chung. Đầu sỏ chính trị, vì chỉ có szlachta tức gần 15% dân số có quyền lực chính trị. Chế độ dân chủ, vì tất cả szachta có các quyền và đặc quyền ngang nhau, và Sejm có quyền phủ quyết nhà vua trong các vấn đề quan trọng. Ngoài ra 15% dân số của thịnh vượng chung được hưởng các quyền lợi chính trị đấy (các szlachta) một tỷ lệ lớn hơn hầu hết các nước châu âu, lưu ý rằng vào năm 1789 ở Pháp chỉ có khoảng 1% dân số có quyền bầu cử, và vào năm 1867 ở Anh chỉ khoảng 3%. Nền quân chủ bầu chọn vua, vì nhà vua được bầu bởi các szlachta. *Quân chủ lập hiến, vì nhà vua bị giới hạn bởi Pacta conventa và những đạo luật khác và szlachta có thể bất tuân mệnh lệnh của bất kỳ vị vua nào mà họ cho rằng bất hợp pháp.

Di sản

Công quốc Warszawa được thành lập năm 1807 là vết tích còn lại của thịnh vượng chung. Những phong trào phục hồi khác xuất hiện trong cuộc Khởi nghĩa tháng Mười Một (1830–31), Khởi nghĩa tháng Giêng (1863–64) và vào năm 1920 gồm cả những nỗ lực thất bại của Józef Piłsudski nhằm tạo ra Międzymorze một liên bang gồm nhiều quốc gia đông-trung Âu và vùng Ban Tích dưới sự bảo trợ của Ba Lan nhằm phục hồi lại nhà nước Ba Lan-Litva cũ, liên bang đó sẽ bao gồm cả Litva và Ukraina. Ngày hôm nay Cộng hòa Ba Lan tự xem mình là quốc gia kế thừa của thịnh vượng chung. Nhưng ngược lại, cộng hòa Litva được thành lập vào cuối chiến tranh thế giới thứ nhất xem sự tham gia của Litva vào Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva xưa kia hầu hết bằng một cái nhìn phủ nhận trong giai đoạn đầu giành lại độc lập của mình Nhưng quan điểm này đã thay đổi gần đây.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva** (, ) hay **Liên bang Ba Lan – Litva** hay **Thịnh vượng chung Ba Lan – Litva** là một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân
nhỏ|Đội tuyển Ba Lan trước trận đấu lịch sử với Hungary (18 tháng 12 năm 1921 tại Budapest) **Trận đấu giữa Ba Lan và Hungary năm 1921** chính là trận đấu lịch sử của Đội
Đại lãnh địa Litva rộng lớn nhất vào đầu thế kỷ 15 dưới triều đại của [[Vytautas]] **Đại công quốc Lietuva** (, , , , ), còn gọi là **Đại công quốc Litva**, là một
**Quan hệ Ba Lan–Litva** là mối quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng, Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Litva. Mối quan hệ giữa hai quốc gia này đã bắt đầu từ thế
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Kopa** (, , Tiếng , , , ) là một đơn vị đo thời trung cổ được sử dụng ở Trung và Đông Âu, đặc biệt là trong thế kỷ 15-18 tại Đại công quốc
**Lịch sử Ba Lan** bắt đầu với cuộc di cư của người Slav vốn đã dẫn tới sự ra đời của các nhà nước Ba Lan đầu tiên vào đầu Trung cổ, khi các dân
**Biểu tượng quốc gia của Ba Lan** là các biểu tượng được sử dụng ở Ba Lan đại diện cho những gì là duy nhất về quốc gia, phản ánh các khía cạnh khác nhau
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
Cuộc **chiến tranh Ba Lan-Litva** là cuộc xung đột vũ trang giữa hai nước Ba Lan và Litva sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cuộc chiến này vốn diễn ra để tranh giành quyền
thumb|Bản sao của [[Vương miện của Bolesław I Dũng cảm, quả cầu hoàng gia và vương trượng được dùng trong lễ đăng quang của Stanisław August Poniatowski năm 1764]] thumb|right|Biểu chương của Vua [[August III
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Ủy ban Cách mạng Lâm thời Ba Lan** (Tiếng Ba Lan: _Tymczasowy Komitet Rewolucyjny Polski_, viết tắt là _Polrewkom_, Tiếng Nga: _Польревком_) là một cơ quan chính quyền được thành lập bởi những người Bolshevik
thumb|[[Liên bang Ba Lan và Lietuva sau đợt phân chia thứ nhất là một xứ bảo hộ của Đế quốc Nga 1773–1789]] **Phân chia Ba Lan lần thứ nhất** của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva
nhỏ|Warsaw - nhà thờ thánh Anna (1786) phải|nhỏ| Nhà hát La Mã trên đảo (1790-1793), người bạn đồng hành với [[Cung điện Łazienki|Cung điện trên mặt nước ]] nhỏ| [[Nhà hát lớn Warszawa|Nhà hát lớn,
**Katarzyna Jagiellonka** (; Tiếng Litva: _Kotryna Jogailaitė_; 1 tháng 11 năm 1526 – 16 tháng 9 năm 1583) là Vương nữ của Liên bang Ba Lan-Lietuva và là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1569
**Vương quốc Ba Lan** () là tên của nhà nước Ba Lan trong những năm 1000 đến năm 1795, và từ năm 1815 đến năm 1916, là tên chính thức một liên minh cá nhân
**Công quốc Phổ** (, ) hoặc **Công tước Phổ** (; ) là một công quốc tồn tại ở đất Phổ, được thành lập như là kết quả của việc thế tục hóa Nhà nước Hiệp
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế
**August II Mạnh mẽ** (; ; 12 tháng 5 năm 1670 – 1 tháng 2 năm 1733) là Tuyển hầu xứ Sachsen của nhánh Albertine của gia tộc Wettin với tôn hiệu **Friedrich August I**. Ông
**Stanisław II August của Ba Lan** (cũng viết **Stanisław August Poniatowski**; tên khi sinh **Stanisław Antoni Poniatowski**;(17 tháng 1 năm 1732 - 12 tháng 2 năm 1798) là vị vua cuối cùng của Ba Lan,
**Quan hệ Ba Lan – Nga** (, ) là mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Ba Lan và Liên bang Nga. Hai quốc gia này có một mối quan hệ lâu dài song
**Khởi nghĩa Khmelnytsky**, còn gọi là **Chiến tranh Cossack–Ba Lan**, **Khởi nghĩa Chmielnicki**, **cuộc nổi dậy Khmelnytsky**, là một cuộc nổi loạn của người Cossack diễn ra từ năm 1648 đến năm 1657 trên các
**Liên minh cá nhân** (tiếng Anh: _personal union_; tiếng Pháp: _union personnelle_) là sự liên hiệp giữa hai hoặc nhiều nước độc lập có chung một người (cá nhân) làm quốc trưởng trong khi biên
nhỏ|300x300px| Biên giới hiện tại giữa [[Litva|Cộng hòa Litva và Cộng hòa Ba Lan. Nó vẫn không thay đổi kể từ Thế chiến II. ]] **Biên giới Litva-Ba Lan** tồn tại kể từ khi tái
nhỏ| [[Quân chủ Công giáo và Cristoforo Colombo, 1493]] **Liên hiệp vương triều** (**', **') là một hình thức liên bang chỉ có hai nhà nước khác nhau được quản lý dưới cùng một triều
**Bang liên** hay **liên hiệp quốc gia** (tiếng Latinh: _confoederare_; ) là liên minh bền lâu được cấu thành bởi các đơn vị chính trị nhằm hướng đến một hành động chung xét trong tương
**_Merkuriusz Polski Ordynaryjny_** (tiếng Anh: _The Polish Mercury Ordinary_; nguyên bản tiếng Ba Lan thế kỷ 17 đánh vần thành: _Merkuryusz Polski Ordynaryiny_; tên đầy đủ: _Merkuriusz Polski dzieje wszystkiego świata w sobie zamykający, dla
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Religie_w_I_Rz-plitej_1573.svg|nhỏ|Bản đồ thể hiện tình hình tôn giáo tại Liên bang Ba Lan và Lietuva vào năm 1573 **Liên hiệp Brest** là một sự kiện diễn ra từ năm 1595–1596, theo đó các Giáo hội
**Hiệp ước Bromberg** (tiếng Đức: _Vertrag von Bromberg_, tiếng Latinh: _Pacta Bydgostensia_) còn gọi là **Hiệp ước Bydgoszcz**, được ký kết giữa John II Casimir của Ba Lan và Tuyển đế hầu Frederick William của
**_Międzymorze_** (, nghĩa: _quốc gia giữa vùng biển_), quen gọi trong tiếng Anh và Tiếng Latinh là **Intermarium**, là một trong những chính sách nổi bật của Józef Klemens Piłsudski, người lúc đấy đang là
**Hiệp ước Polyanovka** (tiếng Ba Lan: _Polanów_, còn được gọi là Hòa ước Polyanovka/Polanów) là một hòa ước được ký vào ngày 14 tháng 6 năm 1634 giữa Liên bang Ba Lan và Lietuva và
Hoàng tử **Michał Kazimierz Ogiński** xứ Oginiec (sinh khoảng năm 1730 tại Warsaw – mất tại Słonim hoặc Warsaw) là một quý tộc người Ba Lan. Ông nắm giữ chức vụ chính trị và là
**Sigismund III Vasa** (tên khác: **Sigismund III của Ba Lan**, , ; 20 tháng 6 năm 1566 – 30 tháng 4 năm 1632 N.S.) là vua của Ba Lan và Đại công tước của Litva,
nhỏ| Tatra - ảnh từ công cụ [./https://en.wikipedia.org/wiki/NASA_World_Wind NASA World Wind] (Vệ tinh nhân tạo NLT Visible) nhỏ| [./https://en.wikipedia.org/wiki/Western_Tatras Western Tatras] -n hìn từ độ cao trung bình nhỏ|Dãy núi Tatra - Czerwone Wierchy nhỏ|Cáo
Trong thời kỳ Giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh, vùng đất này là một phần vô cùng quan trọng trong lịch sử Ba Lan do có một cộng đồng người thiểu số Ba Lan
**_Ten no hate made - Porando hishi_** (天の涯まで―ポーランド秘史?), tiếng Việt gọi là **_Tới cuối thiên đường - Lịch sử bí mật của Ba Lan_**, là một manga lịch sử của Ikeda Riyoko viết vào năm
**Hiệp sĩ Thập tự** hay **Hiệp sĩ Thánh chiến** (tiếng Ba Lan: Krzyżacy) là một cuốn tiểu thuyết lịch sử năm 1900 được viết bởi nhà văn theo chủ nghĩa thực chứng Ba Lan và
**Quốc kì Ba Lan** () gồm hai sọc ngang có chiều rộng bằng nhau, sọc trên màu trắng và sọc dưới màu đỏ. Hai màu được quy định trong hiến pháp Ba Lan là màu
**Józef Rufin Wybicki** (; ngày 29 tháng 9 năm 1747 – ngày 19 tháng 3 năm 1822) là một quý tộc, luật gia, nhà thơ, chính trị gia và nhà hoạt động quân sự người
**Soplica** () là một trong những nhãn hiệu vodka nguyên chất và có hương vị lâu đời nhất Ba Lan, được sản xuất lần đầu tiên vào năm 1891 (trong một nhà máy được mở
**Cuộc nổi dậy Kościuszko** () cũng gọi là **cuộc nổi dậy Ba Lan 1794**, **chiến tranh Ba Lan thứ hai**, **chiến dịch Ba Lan 1794**, và **cách mạng Ba Lan 1794**, là một trong những
**Antoni Wiwulski** () (sinh ngày 20 tháng 2 năm 1877 - mất ngày 10 tháng 1 năm 1919) là một kiến trúc sư và nhà điêu khắc người Ba Lan-Litva ## Tiểu sử Antoni Wiwulski
**Polesia** ( _Paleśsie_, , _Poles'e_, _Polissia_) là một khu vực tự nhiên và lịch sử ở Đông Âu. Là một khu vực rừng rộng lớn bậc nhất châu Âu, Polesia nằm ở phía Tây Nam
**Nhà thờ Thánh Gioan Baotixita** (tiếng Ba Lan: _Archikatedra św. Jana w Warszawie_) là một nhà thờ Công giáo La Mã nằm trong khuôn viên phố cổ ở Warszawa, Ba Lan. Nhà thờ Thánh Gioan
phải|nhỏ|_Một người tị nạn Ba Lan_, tranh khắc họa ở thế kỷ 19 phải|nhỏ|_Người tị nạn Ba Lan ở Bỉ_, tranh khắc họa ở thế kỷ 19 **Cuộc đại di cư** (), là một trong
**Vương quốc Galicia và Lodomeria**, còn được gọi là **Galicia thuộc Áo** hoặc **Ba Lan thuộc Áo**, đã trở thành một _lãnh thổ hoàng gia_ (crownland) của Quân chủ Habsburg, kết quả của sự kiện
**Phân vùng Áo** (tiếng Ba Lan: _zabór austriacki_; tiếng Anh: _Austrian Partition_) còn được gọi là **Ba Lan thuộc Áo**, bao gồm các lãnh thổ trước đây của Liên bang Ba Lan và Lietuva được
**Phân vùng Nga** (tiếng Ba Lan: _Zabór rosyjski_; tiếng Anh: _Russian Partition_) còn được gọi là **Ba Lan thuộc Nga**, là một phần lãnh thổ trước đây cấu thành nên Liên bang Ba Lan và
nhỏ| [https://polona.pl/item/bogurodzica,Njg5MDU1MDE/0/#info:metadata Bản thảo Bogurodzica (1407)] **Bogurodzica** (; Mẹ Thiên Chúa ") là quốc ca lâu đời nhất của Ba Lan. Bài hát sáng tác ở khoảng giữa thế kỷ thứ 10 và 13. Tác