✨Phục bích tại các quốc gia Slav Đông

Phục bích tại các quốc gia Slav Đông

Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay từng bị lật đổ bởi các cuộc cách mạng và đảo chính trong nước, thậm chí phải lưu vong do nạn ngoại xâm nhưng sau đó khôi phục lại được ngôi vị của mình. Dưới đây liệt kê những cuộc phục bích tại các quốc gia của người Slav Đông bao gồm Nga, Belarus và Ukraina.

phải|nhỏ|243x243px|Sviatopolk I phải|nhỏ|382x382px|Yaroslav I phải|nhỏ|234x234px|Iziaslav I phải|nhỏ|239x239px|Vsevolod I phải|nhỏ|180x180px|Vyacheslav I thỏa thuận với Iziaslav II Mstislavich phải|nhỏ|217x217px|Iziaslav II Mstislavich phải|nhỏ|228x228px|Yuri I phải|nhỏ|206x206px|Rostislav I phải|nhỏ|241x241px|Izyaslav III phải|nhỏ|216x216px|Mstislav II phải|nhỏ|255x255px|đám cưới của Gleb Yuryevich phải|nhỏ|246x246px|Yaroslav II phải|nhỏ|210x210px|Sviatoslav III phải|nhỏ|272x272px|Roman I de Galicie

Đại công quốc Nga Kiev

  • Sviatopolk I (tại vị:1015–1016, phục vị:1018–1019)

Năm 1016, Yaroslav I với sự hỗ trợ từ các công dân của Novgorod và Varangian, quyết định gây chiến với Sviatopolk I. Trận chiến diễn ra vào năm 1016 không xa Lubech, gần sông Dnieper, Sviatopolk I bị đánh bại và trốn sang Ba Lan. Nguyên nhân cơ bản là việc Sviatopolk I quyết định loại bỏ ba người con trai của Vladimir: Boris, Gleb và Sviatoslav, những người tuyên bố ngai vàng Kievan đe dọa quyền lực của ông. Tin tức về vụ giết người ba người này đã đến với một người con trai khác của Vladimir, Yaroslav I, và cuộc đấu tranh giành quyền kiểm soát đại công quốc Nga Kiev bùng phát từ đây. Năm 1018, Sviatopolk I quay trở lại với Rus ', đánh bại Yaroslav I với sự giúp đỡ từ cha vợ và chiếm giữ Kiev. Bolesław I Chrobry của Ba Lan và quân đội của ông này ở lại trong vài tháng nhưng sau đó đã rút về Ba Lan, trong khi đó, Konstantin Dobrynich của Novgorod đã thuyết phục được Yaroslav I tiếp tục chiến đấu chống lại Kiev.Parkomenko. Năm 1019, Sviatopolk I bị đánh bại và chạy trốn đến thảo nguyên, chẳng mấy chốc, ông trở lại cùng với quân đội Pechalan và tấn công Yar Tư trên sông Alta, nhưng một lần nữa bị đánh bại và trốn sang Ba Lan, cuối cùng chết trên đường đến đó.

  • Yaroslav I (tại vị:1016–1018, phục vị:1019–1024, tái phục vị:1024–1054)

Năm 1018, Yaroslav I bị mất quyền kiểm soát đại công quốc Nga Kiev bởi sự trở lại của người tiền nhiệm Sviatopolk I. Tuy nhiên, chỉ một năm sau ông đã đánh bại được Sviatopolk I, qua đó khôi phục địa vị. Năm 1024, ngôi vị của Yaroslav I một lần nữa không liền mạch bởi Mstislav Vladimirovich I chen ngang, nhưng sự chen ngang đó cũng chỉ là chớp nhoáng, rồi mọi việc lại đâu ra đấy khi ông đã trở lại ngay lập tức.

  • Iziaslav I (tại vị:1054–1068, phục vị:1069–1073, tái phục vị:1077–1078)

Năm 1068, một cuộc nổi dậy chống lại Iziaslav I Yaroslavich của Kiev bùng phát sau hậu quả từ một thất bại của Kievan dưới bàn tay của người Cumans tại Trận chiến sông Alta gần thành phố Pereiaslavl, phía đông nam Kiev. Quân đội Polovtsy đã thâm nhập vào các tuyến phòng thủ của công trình đất được xây dựng qua nhiều năm bởi Vladimir Svyatoslavich và Yaroslav I, họ đã gặp một đội quân gồm các con trai của Yar Tư: Iziaslav I của Kiev và các anh em của ông, Princes Sviatoslav Yaroslavich của Chernigov, và Vsevolod, đã bị đánh bại và trốn trở về Kiev trong sự hỗn loạn. Polovsty tiếp tục đột kích khắp khu vực, khiến người Kiev phải kêu gọi đại công tước của họ tái vũ trang để họ có thể diễu hành và gặp mối đe dọa, Iziaslav I từ chối, thúc đẩy cuộc nổi loạn. Đám đông người Kiev đã lục soát nhà Konstantin, họ đổ lỗi cho ông về thất bại. Sau đó, họ đã đuổi Iziaslav và giải thoát công tước Vseslav của Polotsk, người đã bị giam cầm trước đó bởi Iziaslav I, Vsevolod và Sviatoslav, và đặt ông ta lên ngai vàng Kiev với hy vọng rằng ông ta có thể ngăn chặn Polovtsy Về phần mình, Iziaslav I trốn sang nương nhờ Boleslaw II của Ba Lan, ông đã được người Ba Lan hỗ trợ bằng vũ khí, trở lại Kiev vào tháng 5 năm 1069 và giành lại ngai vàng. Tuy nhiên, Iziaslav I lại bị anh em của mình Sviatoslav II lật đổ một lần nữa vào năm 1073, ông quay sang vua Đức Henry IV, Hoàng đế La Mã thần thánh, vua Ba Lan Bolesław II the Bold và Giáo hoàng Gregory VII, để được giúp đỡ trong nhiều trường hợp. Iziaslav I trở thành vị vua đầu tiên của Rus ' vào năm 1075 khi Giáo hoàng gửi cho ông một vương miện, ông đã thành công trong việc chiếm lại Kiev một lần nữa vào năm 1077 từ tay Vsevolod I, nhưng sớm chết trong một cuộc chiến tranh nội bộ chống lại Princes Oleg Sviatoslavich và Boris Vyacheslavich vào năm sau.

  • Vsevolod I (tại vị:1076–1077, phục vị:1078–1093)

Năm 1077, Vsevolod I không giữ nổi ngôi báu khi Iziaslav I về nước dưới sự hỗ trợ của nhiều lực lượng ngoại bang. Nhưng chỉ một năm sau, Vsevolod I đã giành lại quyền kiểm soát đất nước khi Iziaslav I sớm chết trong cuộc chiến nội bộ tranh đấu chống lại Princes Oleg Sviatoslavich và Boris Vyacheslavich.

  • Vyacheslav I (tại vị:1139, phục vị:1150, tái phục vị:1151–1154)

Vào ngày 18 tháng 2 năm 1139, Vyacheslav I kế vị anh trai của mình là Yaropolk II, nhưng ông đã bị Vsevolod II đuổi ra vào tháng 3. Năm 1146, Igor II Olgovich lên thay thế anh trai Vsevolod II. Mặc dù anh trai của Igor II Olgovich đã rút ra những lời hứa về lòng trung thành từ các đối tượng người Kiev của mình, nhưng Igor II Olgovichi không được lòng dân và có sự chống lại việc gia nhập của ông ta. Do đó, Igor II Olgovich trị vì chưa đầy hai tuần trước khi người Kiev mời Iziaslav II Mstislavich (công tước Pereiaslav-Khmelnytskyi) làm đại công tước của họ, ông này cầm quyền đến năm 1149. Yuri I giành được đại công quốc Nga Kiev từ năm 1149 đến năm 1151, xen giữa giai đoạn đó là thời kỳ đồng trị vì thứ nhất của hai chú cháu Vyacheslav I và Iziaslav II Mstislavich vào năm 1150, tiếp đó là thời kỳ đồng phục vị cộng trị lần thứ hai của Vyacheslav I và người cháu trai Iziaslav II Mstislavich từ năm 1151 đến năm 1154.

  • Iziaslav II Mstislavich (tại vị:1146–1149, phục vị:1150, tái phục vị:1151–1154)

Năm 1149, Iziaslav II Mstislavich bị trục xuất bởi người chú Yuri I, Yuri I tuyên bố địa vị của ông ta là con trai của Vladimir Monomakh, do đó hợp pháp hơn cháu trai của mình. Ít lâu sau, năm 1150, Iziaslav II giành lại ngai vàng và để có được một mối quan hệ hợp pháp, ông kết hợp với một người chú khác, cựu đại công Viatcheslav I, cũng là con trai của Vladimir II. Nhưng Yuri I không dễ dàng để yên như vậy, chỉ mấy tháng sau đã đem quân săn lùng Iziaslav II lần thứ hai, trước khi quay lại lần nữa. Tuy nhiên, khoảng ngót một năm sau, ông phối hợp với người chú Vyacheslav I đã lấy lại quyền lực, họ cùng nhau trị vì đại công quốc Nga Kiev hỗn loạn và kích động cho đến năm 1154.

  • Yuri I (tại vị:1149–1150, phục vị:1151, tái phục vị:1155–1157)

Năm 1150, ngôi vị đại công của Yuri I không giữ nổi bởi sự cộng trị hai chú cháu Vyacheslav I và Iziaslav II Mstislavich. Ngay lập tức, ông quay lại tái chiếm Kiev, nhưng cũng chưa được bao lâu lại bị Vyacheslav I và Iziaslav II Mstislavich liên thủ đánh bật ra. Năm 1154, Rostislav I giành được quyền thống trị, đến năm 1155 Yuri I mới tái phục vị, ông nắm quyền được hai năm thì qua đời.

  • Rostislav I (tại vị:1154, phục vị:1159–1161, tái phục vị:1161–1167)

Năm 1154, Rostislav I biết rằng Iziaslav II Mstislavich đã chết ở Kiev, ông đã giao quyền cai quản công quốc Novgorod cho con trai David Rodtislavic. Rostislav I đem binh xâm nhập Kiev, tự xưng là Đại công tước, nhưng sự cai trị của Rostislav I Mstislavic tại Kiev cũng không duy trì được, chỉ một tuần sau, ông bị Iziaslav III lật đổ. Năm 1155, Yuri I đánh bại được Iziaslav III, lần thứ ba làm đại công. Năm 1157, Yuri I bị trúng độc chết tại bữa tiệc được tổ chức bởi một quý tộc lớn ở Kiev, Iziaslav III lại lên cầm quyền. Năm 1159, Rostislav I đánh tan thế lực của Iziaslav III, giành lại ngôi vị đại công cho mình lần thứ hai. Năm 1161, tuy Rostislav I phải bỏ chạy khi Kiev bị Iziaslav III tái chiếm trong vài tuần, nhưng rất nhanh ông đã dẹp tan được người này để trở về khôi phục địa vị lần thứ ba.

  • Iziaslav III (tại vị:1154–1155, phục vị:1157–1158, tái phục vị:1161)

Năm 1155, Iziaslav III mất ngôi đại công bởi sự kiện Yuri I tái phục vị. Năm 1157, sau khi Yuri I qua đời, Iziaslav III chớp thời cơ lại giành quyền thống trị ở Kiev. Tất nhiên, cũng chỉ hơn năm sau, ông lại đánh mất ngôi vị lần thứ hai bởi Rostislav I. Tháng 3 năm 1161, Iziaslav III đã rất nhanh chóng giành lại ngai vàng của Kiev lần thứ ba trong vài tuần, cuối cùng ông bị giết ngày 6 tháng 4 năm 1161 gần thị trấn Belgorod trong một cuộc chiến chống lại quân đội của Rostislav I, trong khi cố gắng phục hồi các bang của mình.

  • Mstislav II (tại vị:1167–1169, phục vị:1170)

Năm 1169, quân đội của Andrei I Yuryevich (Đại công tước xứ Vladimir-Suzdal) đã tấn công ồ ạt vào Kiev, tàn phá nó như chưa từng tồn tại. Mstislav II phải bỏ chạy, Andrei I Yuryevich bổ nhiệm anh trai được mình là Gleb Yuryevich làm Đại công tước của Kiev, trong nỗ lực thống nhất đất đai Vladimir-Suzdal với Kiev. Năm 1170, Mstislav II từng quay lại cố gắng phục bích nhưng không duy trì được đại cuộc, ông chiếm giữ Kiev ít bữa khiến Gleb Yuryevich lui binh, nhưng Andrei I Yuryevich ngay lập tức gửi lực lượng sang tiếp ứng. Mstislav II đành bó tay, ông đã qua đời lưu vong ở Byzantium và dưới triều đại của Hoàng đế Manuel I vào năm 1172, trước đó ông được Manuel I trao tặng quận Otskalana.

  • Gleb Yuryevich (tại vị:1169, phục vị:1170–1171)

Năm 1169, Gleb Yuryevich (công tước xứ Pereyaslavl) được em trai Andrei I Yuryevich bổ nhiệm làm Đại công tước của Kiev. Tuy nhiên, khi ông chưa ngồi ấm chỗ thì cựu đại công tước đã trở lại, nhưng cũng chỉ ít lâu em trai ông đã phái quân tiếp viện đến khống chế đại cuộc ở đây vào năm 1170. Trong suốt thời gian sau đó, hai anh em phải gồng mình chiến đấu với làn sóng bạo động chống đối rất quyết liệt, kết thúc vào năm 1171 khi Gleb Yuryevich chết và Andrei I Yuryevich đành chấp nhận từ bỏ Đại công quốc Nga Kiev.

  • Roman Rostislavich (tại vị:1171–1173, phục vị:1174–1176)

Năm 1173, Roman Rostislavich bị buộc phải thoái nhiệm chức vụ đại công ở Kiev, sau khi ông chịu trách nhiệm về vụ ám sát Gleb Yuryevich (bị đầu độc ngày 20 tháng 1 năm 1171). Ông trị vì một lần nữa tại công quốc Smolensk, sau đó trở lại ngai vàng Kiev năm 1174. Xen kẽ thời kỳ này ở Kiev lần lượt có Vsevolod Yuryevich (1173) trị vì năm tuần, tiếp tục Rurik II (1173) và Yaroslav II (1173-1174) rồi đến Sviatoslav III (1174) thay nhau cầm quyền qua nhiều cuộc đấu tranh khốc liệt, kế đó Yaroslav II lên ngôi Kiev một lần nữa trong vài tháng trước khi Roman Rostislavich lấy lại nó.

  • Rurik II (tại vị:1173, phục vị lần một:1181, phục vị lần hai:1194–1201, phục vị lần ba:1203, phục vị lần bốn:1205–1206, phục vị lần năm:1206–1208, phục vị lần sáu:1208–1211)

Năm 1173, Rurik II gặp phải vấn đề kế vị ngai vàng khi lần đầu tiên đảm nhiệm đại công tước Kiev, ông đã được thay thế ngay sau đó bởi một trong những người anh em họ của mình, Yaroslav II. Trong suốt thời kỳ ngự trị bảy lần của mình, Rurik II phải liên tục đấu tranh chống lại những cuộc thanh trừng bạo loạn giành giật quyền lực, đây là giai đoạn sôi động nhất trong lịch sử tồn tại của quốc gia này. Năm 1181, Rurik II phế truất Sviatoslav III đoạt lấy quyền lực lần thứ hai, nhưng Vsevolod III của Vladimir can thiệp buộc ông phải nhường lại ngôi báu cho Sviatoslav III, tuy nhiên qua sự giàn xếp ông được quyền kế vị. Năm 1194, Sviatoslav III giá băng, Rurik II lên ngôi lần thứ ba. Năm 1201, ông bị con rể cũ Roman Mstislavich (gọi là "Đại đế" của Galicia), người đã trao lại ngai vàng cho Ingvar Yaroslavic (một người anh em họ khác của Rurik) đánh bại. Rurik II ở lại một thời gian tại thành phố Chernigov (nơi ông đã xây dựng nhà thờ Thánh Paraskebas), ông đã đòi lại quyền lực khi tấn công và cướp bóc Kiev vào năm 1203 với một đội quân gồm Polovtses và anh em họ riurikid. Cuối năm ấy, Roman Đại đế, sau một cuộc hòa giải đã bắt Rurik II (với vợ và con gái của ông là Predslava, vợ cũ của Roman) nhốt trong một tu viện và làm thợ sửa chữa. Tuy nhiên, dưới áp lực từ phía Vsevolod III của Vladimir, Roman Mstislavitch buộc phải phóng thích Rurik II, nhưng buộc ông phải làm tu sĩ. Từ năm 1205 đến 1211, ông trị vì thành phố Kiev, nhưng ông bị truất ngôi tới hai lần năm 1206 và 1208 bởi người anh em họ xa Vsevolod IV, con trai của Svyatoslav III (mà ông không phải là một phần của chi nhánh Monomakh), mà giả vờ rằng quá khứ tu viện của Rurik II khiến sức mạnh của ông vô hiệu. Kết quả của một cuộc nội chiến mới, một lần nữa Rurik II bị đuổi khỏi Kiev vào năm 1211 bởi Vsevolod IV.

  • Yaroslav II (tại vị:1173–1174, phục vị:1174)

Năm 1174, Yaroslav II đánh mất ngôi vị bởi sự quật khởi của Sviatoslav III. Vài tháng sau, tuy ông có giành lại quyền lực lần thứ hai nhưng cũng chỉ ít bữa lại bị lật đổ bởi Roman Rostislavich.

  • Sviatoslav III (tại vị:1174, phục vị:1176–1181, tái phục vị:1181–1194)

Năm 1174, Sviatoslav III đoạt được quyền lực được từ tay Yaroslav II mấy tháng thì để mất ngôi bởi chính người này, nhưng Yaroslav II còn chưa cũng cố vững chắc nền thống trị đã bị Roman Rostislavich lấy lại nó. Năm 1176, hai anh em của Roman Rostislavich là Rurik II và David đã thua một trận chiến quan trọng chống lại quân Polovtses, Svyatoslav III sau đó chỉ định David chịu trách nhiệm và yêu cầu một phiên tòa, đồng thời yêu cầu ông lấy lại cổ phần của mình về quyền thừa kế đất đai của người Ruthian (ông nên được thừa kế cụ thể ở Kiev). Roman Rostislavich từ chối và sau đó bị buộc lần thứ hai rời Kiev trong cùng năm, Sviatoslav III lên ngôi đại công lần thứ nhì.

  • Roman I de Galicie (tại vị:1201–1202, phục vị:1204)

Năm 1202, với sự đồng ý của Vsevolod III Vladimirski, Roman Mstislavitch giao thành phố Kiev cho anh em họ Ingwar Yaroslavic. Chẳng bao lâu, Rurik II đuổi Ingwar Yaroslavic ra khỏi thành phố vào ngày 2 tháng 1 năm 1203. Mấy tháng sau, Ingvar Yaroslavic được Roman Mstislavitch cài đặt trở lại cho tới năm 1204, Ingwar Yaroslavic và Alexander de Belz tham gia đánh chiếm thành phố Vladimir Volynski. Ingwar Yaroslavic chuyển qua làm công tước ở đây, Roman Mstislavitch quay trở lại Kiev cai trị, trong các cuộc đàm phán ở Trepol với Roman Mstislavitch sau đó, con trai Rurik II là Rostislav Rurikovich được đưa lên ngôi đại công nhưng thực chất quyền lực đều nằm trong tay Roman Galichsky. Vào tháng 6 năm 1205, Roman Galichsky đã bị giết trong trận chiến trong chiến dịch của mình ở Ba Lan, tìm hiểu về điều này Rurik II, đã ném chiếc áo choàng tu sĩ và tuyên bố mình là Đại công tước Kiev lần thứ sáu.

  • Igor III (tại vị:1202–1203, phục vị:1203–1204, tái phục vị:1212–1214)

Năm 1203, Rurik II đánh đuổi được Ingvar Yaroslavic khỏi Kiev. Nhưng mấy tháng sau, Roman Mstislavitch đã kéo binh tới buộc Rurik II phải tháo chạy, Ingvar Yaroslavic cai trị một năm thì trả ngôi cho Roman Mstislavitch. Năm 1212, sau nhiều phen thanh trừng không khoan nhượng được kiến tạo bởi Rurik II và Vsevolod IV, cuối cùng Igor III cũng tìm thấy cho mình một cơ hội lên ngôi đại công lần thứ ba khi ông phối hợp cùng Mstislav Romanovich tấn công Vsevolod IV Sviatoslavich và chiếm được Kiev. Năm 1214, sau một trận chiến gần Belgorod, Ingvar Yaroslavic đã tự nguyện nhượng Kiev cho Mstislav Romanovich và rời đến Lutsk.

  • Vsevolod IV (tại vị:1206, phục vị:1208, tái phục vị:1211–1212)

phải|nhỏ|287x287px|Vladimir IV Năm 1206, Vsevolod IV vừa giành được ngôi đại công từ tay Rurik II thì đã bị chính người đó cướp lại gần như ngay lập tức. Năm 1208, ông tiến hành chính biến lần thứ hai, nhưng cũng chỉ thành công trong chớp nhoáng, rồi trật tự lại đâu vào đấy khi Rurik II trở về cuối năm đó. Năm 1211, ông thành công tuyệt đối trong cuộc chiến với Rurik II lần thứ ba, nhưng cũng chỉ một năm sau thì lại để tuột mất quyền lực về tay Igor III.

  • Vladimir IV (tại vị:1223–1235, phục vị:1236–1238)

Năm 1235, Vladimir Rurikovic do phản đối Izyaslav IV và Polovtsy nên cùng với Daniel Romanovich Galitsky (công tước xứ Galicia-Volynbao) tiến hành vây Chernigov, nhưng ông bị đánh bại tại Torkky, bị Polovtsy bắt và mất triều đại Kiev của mình. Daniel Romanovich Galitsky chạy trốn, Izyaslav IV tự xưng là đại công tước. Năm 1236, được giải thoát khỏi cảnh giam cầm, Vladimir Rurikovic lại tìm đến Daniel Romanovich Galitsky, lần này ông phối hợp với Đại công tước Vladimir Yuri Vsevolodovich của Vladimir, kêu gọi sự giúp đỡ của công tước Novgorod, Yaroslav III. Yaroslav III đánh bật Izyaslav IV, ông tạm thời lên nắm giữ quyền đại công vì thế lực ủng hộ Izyaslav IV vẫn còn khá mạnh, đến tháng 5 năm đó, sau khi dẹp tan được sự bạo động của Izyaslav IV, Yaroslav III mới chính thức trả ngôi vị cho Vladimir IV. phải|nhỏ|298x298px|Yaroslav III

  • Izyaslav IV (tại vị:1235–1236, phục vị:1236)

Tháng 3 năm 1236, Izyaslav IV bị quật đổ bởi Yaroslav III. Từ ngày 10 tháng 4 năm 1236 đến đầu tháng 5 năm 1236 tuy ông có nổi dậy giành lại được ngai vàng, nhưng cũng chỉ như tia chớp loé sáng chốc nhát rồi vụt tắt giữa không trung vì ngay sau đó Vladimir IV đã trở lại với sự hỗ trợ từ phía Yaroslav III.

  • Yaroslav III (tại vị:1236, phục vị:1238, tái phục vị:1243–1246)

Năm 1236, Yaroslav III vừa giành được ngôi đại công thì đã bị Izyaslav IV đòi lại sau một cuộc chính biến chóng vánh. Nhưng cũng trong năm đó, ông đánh bật được Izyaslav IV, trả ngôi đại công cho Vladimir IV. Đến năm 1238, lần thứ hai Yaroslav III có được ngai vàng, nhưng khi người Mông Cổ xâm chiếm Kiev, Yaroslav III thất thủ đành rời đến Vladimir, ông lên ngôi công tước tại đây. Người đứng đầu công quốc Halych là Mikhail Vsevolodovich nhân cơ hội lên cầm quyền tại Kiev, ông này đã đứng lên lãnh đạo nhân dân tổ chức cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ. Năm 1243, Yaroslav III được triệu tập bởi Batu Khan tới thủ đô Sarai, sau một cuộc hội thảo kéo dài, ông trở lại Kiev làm đại công lần thứ ba trong danh dự.

  • Mikhail Vsevolodovich (tại vị:1238–1239, phục vị:1239–1240, tái phục vị:1241–1243)

phải|nhỏ|574x574px|Mikhail Vsevolodovich Năm 1239, giai đoạn thứ hai cuộc xâm lược của người Mông Cổ bắt đầu vào ngày 3 tháng 3, không thể kháng cự lại sức mạnh như chẻ tre của vó ngựa Tatar, Mikhail Vsevolodovich đến Kamenets và tổ chức một cuộc di tản chung về cuộc điều tra của ông khỏi Kiev. Mùa thu năm 1239, người Mông Cổ đã phái các sứ giả đến Kiev đề nghị hòa bình, nhưng Mikhail Vsevolodovich đã từ chối đệ trình. Trong nửa đầu năm 1240, Batu Khan đã gửi Möngke tới người hòa giải Kiev, khi các sứ giả của ông ta đến Mikhail Vsevolodovich lần thứ hai để tìm cách dỗ ông phục tùng, ông đã thách thức Batu Khan bằng cách giết các phái viên của Mông Cổ.. Các lực lượng ở Rus ' mà Mikhail Vsevolodovich vẫn có thể dựa vào là druzhina của riêng ông và dân quân Kiev, và do đó ông trốn sang Hungary khi quân Mông Cổ kéo tới. Trong sự hỗn loạn xảy ra trước cuộc xâm lược bờ tây sông Dnieper, các hoàng tử nhỏ và boyar đã tận dụng các cơ hội để thể hiện quyền lực của mình, Rostislav Mstislavich chiếm giữ Kiev, nhưng ông đã bị Daniil Romanovich đuổi đi. Mikhail Vsevolodovich đến Hungary, cố gắng sắp xếp một cuộc hôn nhân cho con trai của mình, Rostislau III với con gái của nhà vua nước này, Béla IV không thấy có lợi gì khi thành lập một liên minh như vậy và đuổi Mikhail Vsevolodovich và con trai ông khỏi Hungary.. Tại Mazovia, Mikhail Vsevolodovich đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ người chú của mình, nhưng ông quyết định rằng hành động nhanh chóng là tìm cách hòa giải và gửi sứ thần tới anh rể, Mikhail Vsevolodovich cam kết sẽ không bao giờ đối kháng với Daniil Romanovich và đã đưa ra bất kỳ nỗ lực nào trong tương lai đối với Halych. Daniil Romanovich mời ông đến Volhynia, trả lại vợ và từ bỏ quyền kiểm soát Kiev. Tuy nhiên, trước cuộc tấn công của người Mông Cổ, Mikhail Vsevolodovich đã không trở về Kiev mà cho phép người của anh rể của mình ở lại đó. Đến cuối năm 1240, Batu Khan lại bao vây Kiev cùng với quân đội của mình và thành phố sụp đổ vào ngày 6 tháng 12, khi biết được số phận của Kiev, Mikhail Vsevolodovich đã rút khỏi Volhynia và lần thứ hai áp đặt lên những ân sủng của người chú. Năm 1241, Mikhail Vsevolodovich cư trú trên một hòn đảo gần Podil (Old Kyiv đã bị san bằng), nhưng quân đội của Batu Khan đã không thách thức sự xuất hiện của ông cho thấy người Mông Cổ sẵn sàng để đại công tước trở về Kiev bị tàn phá mà không cản trở. Batu Khan bắt đầu triệu tập các hoàng tử của Rus ' đến Sarai, để tỏ lòng tôn kính, Khan bổ nhiệm Mikhail Vsevolodovich là đại công tước cao cấp ở Rus ', sau khi trở về Suzdal, ông đã phái chỉ huy của mình cai trị Kiev.

  • Rostislav Mstislavitch (tại vị:1239, phục vị:1240–1241)

Năm 1239, Rostislav Mstislavitch chiếm được Kiev nhân cuộc hỗn loạn, nhưng không lâu sau ông đã bị Daniil Romanovich đuổi đi, đưa Mikhail Vsevolodovich về phục vị. phải|nhỏ|287x287px|Vladimir Rurikovich Khi người Mông Cổ phá hủy thành phố Kiev vào ngày 19 tháng 11 năm 1240, Mikhail Vsevolodovich lại phải rút chạy, Rostislav Mstislavitch nhân cơ hội lại tiến quân vào Kiev để trấn an cơn thịnh nộ của họ, đang chuẩn bị đến Sarai, thủ đô của Golden Horde để tỏ lòng tôn kính với Khan vĩ đại. Năm 1241 khi trở về, Daniel de Galicie buộc Rostislav Mstislavitch phải thoái vị để ủng hộ Mikhail Vsevolodovich tái đăng cơ, ông bị giam cầm.

Công quốc Ovruch

  • Vladimir Rurikovich (tại vị:1219–1223, phục vị:1236–1239)

Năm 1223, sau cái chết của Mstislav Romanovich Old trong trận chiến Kalka, Vladimir Rurikovich chuyển sang Kiev làm đại công tước, con trai ông là Rostislav Vladimirovich lên cầm quyền tại công quốc Ovruch. Năm 1235, Vladimir Rurikovich bị đánh bại tại Torkky, bị Polovtsy bắt và mất triều đại Kiev của mình bởi Izyaslav IV. Năm 1236, Vladimir Rurikovich được giải thoát khỏi cảnh giam cầm, ông trở về Ovruch làm công tước lần thứ nhì khi con trai ông thoái vị. Sau đó ít lâu, Yaroslav III đánh tan được Izyaslav IV, ông kiêm luôn chức đại công tước ở Kiev đến năm 1238.

Công quốc Halych và Vương quốc Galicia-Volynia

  • Volodymyrko Volodarovych (tại vị:1141–1144, phục vị:1144–1153)

Năm 1144, lợi dụng Volodymyrko Volodarovych đi săn ở Terebovlya, người Galicia kêu gọi Ivan Barladnik của Zvenigorod tập hợp quân đội, chiếm giữ Halych trong ba tuần. Volodymyrko Volodarovych lập tức đem binh trở lại, Ivan Berladnits thua to đã trốn đến thành phố Berlad trên sông Danube, và từ đó chạy đến Kiev, sau đó sang lưu vong tại Hy Lạp. Volodymyrko Volodarovych đối phó tàn nhẫn với phiến quân, cố thủ vững chắc trên ngai vàng Galicia. Nguyên nhân sự kiện trên, để kết hợp một số quyền tự trị trong một công quốc Galicia duy nhất, Volodymyrko Volodarovych cố gắng sáp nhập công quốc Volyn vào đất đai của mình, điều này gây ra sự bất mãn từ Đại công tước Nga Kiev Vsevolod II Olegovich. Trong cuộc chiến chống lại Vsevolod Volodymyrko đã thất bại và cam kết trả cho ông 1.400 Bitcoin, muốn gây quỹ, Volodymyrko Volodarovych đã che đậy cống nạp của Galich dân số, điều này gây ra sự bất mãn với các thành phố và trở thành lý do cho cuộc nổi dậy.

  • Oleg Yaroslavich (tại vị:1187, phục vị:1188)

Năm 1187, Oleg Yaroslavich lên làm công tước chưa bao lâu đã bị lật đổ bởi người anh trai khác mẹ Vladimir II Yaroslavich. Vấn đề này khởi điểm từ cái chết của cha ông, công tước Yaroslav Volodimerovich, người đã trao Peremyshl (Przemyśl, Ba Lan) cho con trai hợp pháp duy nhất của mình, Vladimir Yaroslavich, đồng thời chỉ định Oleg Yaroslavich là người kế vị ở Halych, yêu cầu Vladimir II Yaroslavich và người Galicia hứa sẽ không lấy đất đai của Oleg Yaroslavich. Tuy nhiên, sau khi Yaroslav Volodimerovich chết, Oleg Yaroslavich đã bị phế truất gần như ngay sau đó và phải tìm sự giúp đỡ từ Ryurik Rostislavich ở Vruchiy nhưng không thành công, ông đã đến công tước Casimir II của Ba Lan. Năm 1188, Oleg Yaroslavich và Công tước Casimir II đã đánh bại Vladimir Yaroslavich và buộc ông này phải chạy trốn sang Hungari, sau đó Casimir II bổ nhiệm Oleg Yaroslavich làm công tước Halych lần thứ hai. Thế nhưng việc phục tịch này cũng quá ngắn ngủi, bởi Oleg Yaroslavich chỉ ít lâu sau đã bị đầu độc bởi chính người dân Halych, họ mời Roman Mstislavich của Vladimir-in-Volhynia làm công tước mới của mình.

  • Vladimir II Yaroslavich (tại vị:1187–1188, phục vị:1190–1199)

Năm 1188, Vladimir II Yaroslavich bị mất ngôi bởi người em khác mẹ Oleg Yaroslavich, ông phải chạy sang Hungary nương nhờ vua Béla III. Vua Béla III tổ chức cuộc tuần hành chống lại Roman the Great, có ý định phục hồi Vladimir II Yaroslavich, và Roman the Great thất bại đã phải chạy trốn về Volodymyr-Volynskyi vào năm 1189. Trong khi đó, vua Béla III, thay vì trao lại Halych cho Vladimir II Yaroslavich như đã hứa, mà giao vùng đất này cho con trai mình là Andrew II. Về phần Vladimir II Yaroslavich, ông được đưa trở lại Hungary, chịu sự quản thúc giam lỏng. Năm 1190, Vladimir II Yaroslavich trốn thoát khỏi Hungary, ông chạy sang Đức, yêu cầu Hoàng đế Frederick Barbarossa bảo vệ. Vladimir II Yaroslavich hứa với hoàng đế Đức sẽ trả cho ngài một khoản cống nạp hàng năm là 2.000 grivna nếu ông được phục hồi nhờ sự giúp đỡ của hoàng đế trên ngai vàng Galicia, Hoàng đế Đức đề nghị Vladimir II Yaroslavich cho Công tước Casimir II của Ba Lan, người đã gửi quân Ba Lan đến Halych để hỗ trợ cho yêu sách lưu vong. Khi Vladimir II Yaroslavich trở lại Halych, dân chúng đã chào đón ông, Andrew II buộc lòng phải rút lui quay về Hungary chờ đợi thời cơ phục hận. phải|nhỏ|180x180px|Roman đại đế nhận một đại sứ từ Giáo hoàng [[Innocent III]]

  • Roman đại đế (tại vị:1188–1189, phục vị:1199–1205)

Năm 1189, Roman đại đế bị đánh bại bởi quân đội Hungary mà phải thoái lui về Volodymyr-Volynskyi. Năm 1199, khi Vladimir II Yaroslavich qua đời, ông đưa quân tấn công trở lại, tuyên bố làm công tước Halych lần thứ nhì.

  • Andrew II (tại vị:1189–1190, phục vị:1209–1210)

phải|nhỏ|239x239px|Andrew II Năm 1190, Andrew II bị trục xuất khỏi Halych, bởi sự cai trị của ông ở đây không được lòng dân. Năm 1205, Andrew II lên ngôi quốc vương Hungary và Croatia, ông đã phát động chiến dịch đầu tiên để chiếm lại Halych vào năm 1206. Theo yêu cầu của giới quý tộc Halych, Andrew II đã can thiệp chống lại Vsevolod Svyatoslavich, công tước xứ Chernigov và các đồng minh của ông ta thay mặt cho Daniel Romanovich (công tước Halych và Lodomeria), Vsevolod Svyatoslavich và các đồng minh buộc phải rút khỏi Halych. Sau khi Andrew II trở về Hungary, anh em họ xa của Vsevolod Svyatoslavich là Vladimir Igorevich đã chiếm giữ cả Halych và Lodomeria, trục xuất Daniel Romanovich khỏi tổ quốc. Daniel Romanovich trốn đến nương tựa Leszek I của Ba Lan, sau đó Leszek I đề nghị Daniel Romanovich đến thăm Andrew II, nhưng Vladimir Igorevich "đã gửi nhiều quà tặng" cho cả Andrew II và Leszek I, nên hai người này từ chối việc tấn công ông ta. Nhưng đến năm 1208, người anh em nổi loạn của Vladimir Igorevich là Roman Igorevich đã sớm đến Hungary, tìm kiếm sự giúp đỡ của Andrew II, Roman Igorevich trở lại Halych và trục xuất Vladimir Igorevich với sự giúp đỡ của quân đội phụ trợ Hungary. Chỉ ít lâu sau, lợi dụng một cuộc xung đột giữa Roman Igorevich và các quý tộc, Andrew II đã gửi quân tới Halych, quân Hungary bắt Roman Igorevich vào năm 1209, thay vì bổ nhiệm một công tước mới, Andrew II tự xưng làm công tước Halych, ông không trực tiếp cai trị ở đây mà phái thống đốc Benedict thay mặt mình.

  • Danylo Romanovych (tại vị:1205–1206, phục vị lần một:1211–1212, phục vị lần hai:1229–1231, phục vị lần ba:1233–1236, phục vị lần bốn:1237–1241, phục vị lần năm:1242–1264)

phải|nhỏ|287x287px|Danylo Romanovych Năm 1206, Danylo Romanovych mất ngôi khi mới lên 5 tuổi bởi những kẻ tẩy chay, ông phải lưu vong cùng mẹ là Anna-Euphrosyne sang Ba Lan cho đến năm 1211. Trong thời gian này, tại Halych xảy ra nhiều cuộc thay bậc đổi ngôi, đó là hai lần tại vị của Vladimir III. Igorjewitsch (Chernigov) (1206-1208, 1210-1211) và Roman II Igorevich (1208-1209, 1210) xen giữa có Rostislav II trong năm 1209 và András II của Hungary (1209-1210). Năm 1211, một nhóm các boyar đã bị báo động bởi các hành vi chuyên quyền của Vladimir Igorevich, đã yêu cầu Andrew II khôi phục Daniel Romanovich làm người cai trị Halych, Andrew II và các đồng minh của ông là Les Leskk I của Ba Lan và ít nhất năm người các hoàng tử của Rus đã gửi quân đội của họ đến Halych, đánh bại Vladimir Igorevich để khôi phục Daniel Romanovich. Nhưng chưa bao lâu, quần chúng lại nổi loạn trục xuất mẹ của Daniel Romanovich vào năm 1212, Volodislav Kormilchich được đưa lên ngôi. Anna-Euphrosyne thuyết phục Andrew II đích thân dẫn quân đội của mình đến Halych, Andrew II bắt được Volodislav Kormilchich năm 1214, đưa ông ta đến Hungary. Sau khi Andrew II rút khỏi Halych, các quý tộc Halych đem dâng ngai vàng cho Coloman I của Galicia (con trai của Andrew II), người này trục xuất Daniel Romanovich và mẹ của ông khỏi chức vụ. Andrew II đã bổ nhiệm một quý tộc Hungary, Benedict the Bald, để điều hành nó thay mặt Coloman, vì người này là trẻ vị thành niên, Coloman lên ngôi vua đầu tiên của Halych với sự ủy quyền của giáo hoàng vào đầu năm 1216. Năm 1221, Danylo Romanovych (lúc đó đang làm công tước xứ Volodymyr-Volynskyi) từng gửi quân đến Halych giúp Mstislav Mstislavich. Năm 1229, những người theo ông ở Galich đã mời Danylo Romanovych lên ngôi, ông chiếm thành phố trong một cuộc bao vây và, mặc dù đốt cháy các thành phố thông qua cây cầu bắc qua Dniester, đã chiếm được Halych, đánh đuổi Andre Ugorski. Danilo Romanovich đã thả tù nhân bị bắt giữ của hoàng tử Andrew, nhưng sau đó, với sự hỗ trợ của Sudislav và cha vua Hungary, Andre Ugorski đã thực hiện một nỗ lực khác để bắt Galich vào năm 1231. Năm 1232, Danylo Romanovych liên minh với Đại công tước Nga Kiev Volodymyr Rurikovich và Polovtsy đã chiến đấu không thành công chống lại người Hungary, nhưng chẳng bao lâu, trong cuộc bao vây Halych của người Volynian năm 1233, công tước Andre Ugorski đã chết và Danylo Romanovych tái chiếm được ngai vàng Galicia. Năm 1236, Mikhail Chernihiv đã lấy Halych, ông ta để lại cho con trai của mình Rostislau III cai quản ở đây. Năm 1237, Danylo Romanovich trở lại ngai vàng Galicia, để danh hiệu công tước Volyn, thêm danh hiệu công tước Galitsky. Năm 1241, Rostislau III tái chiếm Halych, tuy nhiên sang năm 1242, Danylo Romanovich đã kịp thời trở về, ông cai trị lần này cho đến cuối đời.

  • Anna-Euphrosyne (tại vị:1205–1206, phục vị:1211–1212)

Năm 1206, Anna-Euphrosyne mất quyền nhiếp chính, bà cùng con trai Danylo Romanovych phải lưu vong sang Ba Lan. Năm 1211, khi liên quân Ba Lan-Hungary đưa quân sang Halych, hai mẹ con mới được phục vị. Tuy nhiên, cũng chỉ một năm sau, Mstislav Mstislavich quật khởi, Anna-Euphrosyne và con trai lại chịu cảnh nước mất nhà tan.

  • Vladimir Igorevich (tại vị:1206–1208, phục vị:1210–1211)

Năm 1208, Vladimir Igorevich không thể kiểm soát được tình hình Halych bởi sự tạo phản của người anh em Roman II Igorevich được sự hậu thuẫn của quân đội Hungary. Năm 1209, lợi dụng sự mâu thuẫn giữa Roman II Igorevich và các quý tộc, Andrew II lại gửi quân tới Halych, quân Hungary bắt Roman II Igorevich vào năm 1209, thay vì bổ nhiệm một công tước mới, Andrew II tự xưng làm công tước Halych. Năm 1210, Vladimir Igorevich và Roman II Igorevich làm hòa, họ cùng nhau mở cuộc phản kích đánh đuổi người Hungary ra khỏi đất nước của mình, hai người thực hiện chế độ cộng trị.

  • Roman II Igorevich (tại vị:1208–1209, phục vị:1210–1211)

Năm 1209, Roman II Igorevich bị người Hungary bắt làm tù binh, vua Hungary là Andrew II tự xưng làm công tước Halych, cử thống đốc Benedict sang cai trị. Ít lâu sau, Roman II Igorevich đã hòa giải với anh trai của mình, Vladimir Igorevich, vào năm 1210, lực lượng thống nhất của họ đã đánh bại quân đội của Benedict, trục xuất người Hungary khỏi Halych, hai người thực hiện chế độ cộng trị. Để khẳng định uy quyền của mình, Roman II Igorevich và Vladimir Igorevich đã xử lý một số phần tử Galicia không hài lòng với họ, do đó họ cuối cùng đã mất sự hỗ trợ trong công quốc. Năm 1211, quân đội Ba Lan-Hungary liên minh đã đuổi Vladimir Igorevich đưa mẹ con Anna-Euphrosyne và Danylo Romanovych phục vị, Roman II Igorevich đã bị treo cổ theo yêu cầu của Galicia. phải|nhỏ|271x271px|Coloman I phải|nhỏ|180x180px|Mstislav Mstislavich (trái) và [[Danylo Romanovych (phải)]]

  • Coloman I (tại vị:1214–1219, phục vị:1219–1221)

Năm 1219, sau khi quân đội Hungary chiếm đóng các vùng lãnh thổ phía tây Galicia, Leszek liên minh với Mstislav Mstislavich, công tước xứ Novgorod. Mstislav Mstislavich đã xâm chiếm Halych, buộc Coloman và những người ủng hộ ông phải chạy trốn sang Hungary, Mstislav Mstislavich đã cho con gái Anna, kết hôn với Daniel Romanovich, người đã sớm chiếm giữ vùng đất giữa hai con sông Wieprz và Bug từ Leszek. Bị xúc phạm bởi cuộc tấn công của Daniel Romanovich, Leszek đã liên minh với Andrew II, các lực lượng thống nhất của họ đã đánh bại quân đội của Mstislav Mstislavich trong ba trận chiến vào tháng 10 năm 1219. Mstislav Mstislavich và Daniel Romanovich buộc phải từ bỏ Halych, Coloman trở lại công quốc cai trị lần thứ hai.

  • Mstislav Mstislavich (tại vị:1219, phục vị:1221–1226)

Năm 1219, Mstislav Mstislavich thất bại phải bỏ chạy khỏi Halych, tuy vậy ông vẫn tìm cách phục vị. Năm 1220, Mstislav Mstislavich đã mượn quân đội của người Cumans, một lần nữa xâm chiếm Halych, nhưng không thể chiếm được thủ đô. Lợi dụng sự vắng mặt của phần lớn quân đội Hungary, Mstislav Mstislavich và lính đánh thuê người Cumans đã bao vây Halych vào tháng 8 năm 1221, các thuộc hạ của Coloman đã cố gắng chống cự trong nhà thờ kiên cố, nhưng việc thiếu nước buộc họ phải đầu hàng, Coloman bị bắt giữ, chịu sự giam cầm trong pháo đài Torchesk. Các cuộc tấn công nội bộ ở Hungary đã ngăn cha của Coloman khởi động một cuộc thám hiểm quân sự chống lại Mstislav Mstislavich, Andrew II tham gia đàm phán với Mstislav Mstislavich và họ đã đạt được thỏa hiệp vào đầu năm 1222. Theo thỏa thuận, Coloman sẽ từ bỏ tước hiệu ở Halych, còn Mstislav Mstislavich đồng ý Maria, con gái của mình, kết hôn với Andrew III (em trai của Coloman), người mà danh hiệu hoàng gia của Coloman sẽ được chuyển giao.

  • Andre Ugorski (tại vị:1226–1229, phục vị:1231–1233)

Năm 1229, Andre Ugorski mất ngôi bởi cựu công tước Daniil Romanovich trở lại. Năm 1231, ông có tiếp nhận được Halych lần thứ nhì, nhưng chỉ hai năm sau ông tử trận và công quốc lại thuộc về tay Daniil Romanovich.

  • Rostislau III (tại vị:1236–1237, phục vị:1241–1242)

Năm 1237, Rostislau III mở cuộc hành quân chống lại người Litva, bởi họ đã cướp bóc vùng đất của Công tước Conrad xứ Mazovia, một đồng minh của chiến dịch chống lại người bác rể Daniil Romanovich. Ông mang theo tất cả các boyar và hiệp sĩ của vương quốc, chỉ để lại một đơn vị đồn trú ít ỏi để bảo vệ Galicia, người dân thành phố sợ hãi, gọi Daniil Romanovich trở lại và tôn ông ta làm quân chủ. Khi Rostislau III biết tin, ông đã trốn đến nương nhờ Béla IV của Hungary, tại đây Mikhail Vsevolodovich (cha của Rostislau III, đang ở Hungary lánh nạn Mông Cổ) đã cố gắng sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa Rostislau III với con gái của nhà vua, do không thấy có lợi gì trong việc liên minh với các công tước mất ngôi nên Béla IV trục xuất họ khỏi Hungary. Rostislaus III và cha của ông đã đến Mazovia để tìm kiếm sự hòa giải với Daniil Romanovich, người vẫn kiểm soát quyền thống trị và giữ vợ, em gái và mẹ của Mikhail Vsevolodovich. Mikhail Vsevolodovich đã gửi sứ giả cho anh rể của mình thừa nhận rằng hai cha con đã phạm tội chống lại ông ta trong nhiều lần, thề sẽ không bao giờ đối kháng với Daniil Romanovich một lần nữa và từ bỏ mọi nỗ lực để giành lại Galicia. phải|nhỏ|237x237px|cái chết của Rostislav Riourikovitch Ông đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các boyar địa phương và hai giám mục có uy tín nhất, kết quả đã thuyết phục được người dân thị trấn đầu hàng mà không cần chiến đấu. Tuy nhiên, Daniil Romanovich đã trả đũa và tấn công Galicia, không thể chống lại cuộc tấn công, một lần nữa, Rostislau III phải chạy trốn cùng các đồng minh và lánh nạn ở Shchekotov vào năm 1242.

Công quốc Torchesk

  • Rostislav Riourikovitch (tại vị:1190–1194, phục vị:1195–1198)

Năm 1194, Rostislav Riourikovitch bị gián đoạn thời gian ngự trị tại công quốc Torchesk, tuy vậy ngay năm sau ông đã giành lại địa vị của mình và trị vì đến năm 1198, ông cầm quyền cùng lúc ở Belgorod trong quãng thời gian 1195–1197. Sau khi rời khỏi công quốc Torchesk, Rostislav Riourikovitch lần lượt làm chủ các công quốc khác như: Vyshgorod từ 1198–1210, Galicia-Volyn vào năm 1210 và Ovruch từ năm 1210–1218 cho đến lúc qua đời.

Công quốc Zvenigorod

  • Roman II Igorevich (tại vị:1206–1208, phục vị:1210–1211)

Năm 1208, Roman II Igorevich chuyển từ Zvenigorod sang Halych thay thế người anh trai Vladimir Igorevich, ông làm được điều này đều nhờ sức mạnh của quân đội Hungary, lúc đó Zvenigorod không có người cai trị mà được quản lý trực tiếp trở thành một phần của công quốc Halych. Chỉ ít lâu sau, người Hungary và Roman II Igorevich nảy sinh mâu thuẫn nên đã đưa quân đến bắt ông, Andrew II tự xưng làm công tước Halych. Năm 1210, Roman II Igorevich trốn thoát khỏi Hungary, ông giảng hòa với Vladimir Igorevich, họ thực hiện chế độ cộng trị, tuy nhiên Roman II Igorevich không ở Halych mà quay trở lại làm công tước Zvenigorod, một năm sau ông bị treo cổ khi liên quân Ba Lan-Hungary kéo sang.

Công quốc Czernicóvia

  • Mikhail Vsevolodovich (tại vị:1223–1226, phục vị:1226–1234, tái phục vị:1239, hựu tái phục vị:1241–1245)

phải|nhỏ|246x246px|Mikhail Vsevolodovich Năm 1226, Olegue III lên làm công tước, chấm dứt thời kỳ cai trị đầu tiên của Mikhail Vsevolodovich, nhưng Mikhail Vsevolodovich đã rất nhanh chóng giành lại ngôi báu. Năm 1234, đến lượt Mistislau III làm gián đoạn ngai vàng của Mikhail Vsevolodovich, lần này phải đến năm 1239 Mikhail Vsevolodovich mới khôi phục được quyền lực. Tuy nhiên, Rostislau III đã không để Mikhail Vsevolodovich được toại nguyện khi tiến hành bạo loạn chỉ mấy tháng sau, trong chớp nhoáng đã cướp mất cơ đồ của Mikhail Vsevolodovich. Năm 1241, Mikhail Vsevolodovich mới lật ngược thế cờ để làm chủ Czernicóvia lần thứ tư, nhưng cho đến lúc đó, quyền lực của ông không an toàn, ông cần phải tỏ lòng kính trọng với người Mông Cổ để lấy lại địa vị không thể tranh cãi. Mikhail Vsevolodovich cũng là nhân vật nổi bật ở đại công quốc Nga Kiev trong ba lần lên ngôi tại xứ sở này: (1238-1239, 1239-1240, 1241-1243), cả ba lần đều đan xen với thời kỳ hỗn tạp tại Czernicóvia trong cùng thời điểm.

Công quốc Turov

  • Vyacheslav I (tại vị:1125–1132, phục vị:1134–1142, tái phục vị:1142–1146)

phải|nhỏ|210x210px|Sviatoslav III Năm 1132, Vyacheslav I đánh mất ngôi vị bởi Vsevolod Mstislavich (người đang cai trị công quốc Pereslavl thời điểm đó, được người chú là Yaropolk II Vladimirovich ủng lập), nhưng chỉ sau đó ít lâu, Iziaslav II Mstislavich đã trục xuất Vsevolod Mstislavich khỏi cả hai công quốc mà độc chiếm ngôi vị. Năm 1134, Iziaslav II Mstislavich nhường lại ngai vàng của hai công quốc này cho Vyacheslav I tiếp quản, tuy có gián đoạn lần nữa vào năm 1142 bởi Sviatoslav III tiếm vị nhưng ngay sau đó Vyacheslav I kịp thời đã giành lại quyền kiểm soát công quốc Turov.

  • Sviatoslav III (tại vị:1142, phục vị:1154–1155)

Năm 1142, Sviatoslav III (công tước xứ Novgorod) lật đổ Vyacheslav I, cướp được chính quyền về tay mình, nhưng ông không giữ nổi vì chỉ mấy tháng Vyacheslav I đã nhanh chóng phục bích. Sviatoslav III dời sang công quốc Volyn cầm quyền ở đây, đến năm 1154 nhân tình hình chính trị ở Turov hỗn loạn ông xâm nhập trở lại, tuy nhiên ông cũng chỉ trụ được khoảng hơn một năm thì lại bị bật bãi bởi Boris Yurevich. Kế tiếp, Vyacheslav I còn làm công tước ở Novgorod-Seversky (1157–1164), Chernihiv (1164–1180) và ba lần ở Đại công quốc Nga Kiev (1174, 1176–1181, 1181–1194).

  • Ivan Yuryevich Turovsky (tại vị:1167–1170, phục vị:1195–1207)

Năm 1170, Ivan Yuryevich Turovsky đã giúp Hoàng tử Mstislav Izyaslavich chiếm ngôi vua Kiev, do đó ông bị lật đổ theo lệnh của Đại công tước Vladimir Andrei Yuryevich Bogolyubsky, Svyatopol Yurievich được đưa lên thay thế. Năm 1190, Svyatopol Yurievich qua đời, em trai là Gleb Yurievich (công tước xứ Dubrovitsky) kế nhiệm chức vụ này cho đến năm 1195 thì mất, Ivan Yuryevich Turovsky nhờ đó quay lại ngai vàng.

Công quốc Lodomeria

  • Roman đại đế (tại vị:1170–1189, phục vị:1189–1205)

Năm 1189, Vsévolod II Mstislávich thay Roman đại đế cai quản công quốc Lodomeria, nhưng không lâu sau đó Roman đại đế đã quay trở lại vì ông bị quân đội Hungary đánh bật khỏi Halych. Năm 1165, David Rostislavich (công tước xứ Smolensk) kế tục Roman Vyacheslav cai trị Vitebsk, đến năm 1168 thì đến lượt Briachislav Vasilkovich lần thứ nhất ngôi trên ngai vàng. Năm 1175, Vseslav Vasilkovich quay lại Vitebsk trị vì cho đến năm 1178, sau đó ông lại đến Polotsk. Năm 1180, ông về Vitebsk cầm quyền lần thứ ba, đóng vai trò đồng cai trị cùng với Briachislav Vasilkovich một năm, sau đó từ năm 1181 một mình cai quản công quốc này cho đến khi qua đời.

  • Briachislav Vasilkovich (tại vị:1168–1175, phục vị:1178–1181)

Năm 1175, khi Vseslav Vasilkovich quay về Vitebsk, Briachislav Vasilkovich đã chủ động từ nhiệm. Nhưng đến năm 1178, Vseslav Vasilkovich lại chuyển qua Polotsk, ông lên ngôi lần thứ hai.

Công quốc Drutsk

  • Rogvolod-Vasily Borisovich (tại vị:1127–1129, phục vị:1140–1144, tái phục vị:1158–1159, hựu tái phục vị:1162–1171)

Năm 1129, Đại công tước Nga Kiev Mstislav Vladimirovich Đại đế thực hiện một chiến dịch chống lại Polovtsy và ra lệnh cho các nước chư hầu tham gia, nhưng Rogvolod-Vasily Borisovich đã từ chối bằng những lời chế giễu. Hơn nữa, khi Mstislav Vladimirovich Đại đế đang chiến đấu với Polovtsy, Rogvolod-Vasily Borisovich đã đưa quân đánh nhau với Davyd Vseslavich (công tước xứ Polotsk) và tấn công tài sản của những người thân của Mstislav Vladimirovich Đại đế. Sau khi trở về từ chiến dịch, Mstislav Vladimirovich Đại đế gửi quân qua Drutsk, kết quả Rogvolod-Vasily Borisovich bị bắt sống, và đưa đến Kiev. Năm 1130, theo phán quyết của tòa án, Rogvolod-Vasily Borisovich cùng với gia đình bị tước quyền thừa kế, bị gửi đến Byzantium lưu đày. Năm 1140, dưới sự cho phép của tân Đại công tước Nga Kiev Yaropolk Vladimirovich, Rogvolod-Vasily Borisovich được phóng thích hồi hương, một lần nữa nhận quyền cai quản công quốc Drutsk. Năm 1143, Rogvolod-Vasily Borisovich kết hôn với con gái của một trong những người con trai của Mstislav Vladimirovich Đại đế, Izyaslav Mstislavich, nhờ cuộc hôn nhân này mà vào năm 1144, sau cái chết của Vasilko Svyatoslavich, ông đã có thể chuyển qua ngồi ở vị trí công tước xứ Polotsk. Năm 1151, Rogvolod-Vasily Borisovich mất ngôi do cuộc bạo động của dân chúng Polotsk, ông bị công tước xứ Minsk là Rostislav Glebovich bắt giữ, ít lâu sau ông ra tù rồi trú ẩn ở Chernigov. Năm 1158, Rogvolod-Vasily Borisovich được dân chúng chào đón trở về Drutsk, nhưng chỉ một năm sau ông lại chuyển sang Polotsk làm công tước lần thứ hai sau sự ra đi của Rostislav Glebovichi, Gleb Rogvolodovich lên thay ông. Năm 1162, Rogvolod-Vasily Borisovich hưng binh bao vây Gorodets, nhưng đối thủ chính của ông, Volodar Glebovich trong đêm, với sự giúp đỡ của người Litva, đã thực hiện một cuộc tấn công từ thành phố và đánh bại quân đội của Rogvolod-Vasily Borisovich. Ông bỏ trốn đến Slutsk và từ đó chạy về Drutsk lên ngôi lần thứ tư ở đây, quyết định không trở lại Polotsk nữa, dân chúng Polotsk tôn lập Vseslav Vasilkovich thay thế địa vị của ông.

  • Gleb Rogvolodovich (tại vị:1144–1151, phục vị:1159–1162, tái phục vị:1171–1180)

Năm 1151, Gleb Rostislavich lên làm công tước xứ Drutsk thay cho Gleb Rogvolodovich. Năm 1158, Rogvolod-Vasily Borisovich về nước làm công tước lần thứ ba, nhưng chỉ năm sau thì chuyển đến Polotsk, và Gleb Rogvolodovich lên ngôi lần thứ hai. Năm 1162, Gleb Rogvolodovich từ nhiệm khi cựu công tước Rogvolod-Vasily Borisovich trở lại phục tịch. Năm 1171, Rogvolod-Vasily Borisovich mất, Gleb Rogvolodovich lại lên ngôi lần thứ ba.

Công quốc Polotsk

  • Vseslav II Briacheslavich (tại vị:1044–1067, phục vị:1070–1101)

phải|nhỏ|180x180px|Vseslav II Briacheslavich phải|nhỏ|180x180px|Davyd Vseslavich (trái) Năm 1067, lực lượng quân đội của đế quốc Ba Tư đã hành quân về phía bắc, họ tổ chức cướp phá Minsk (lúc đó dưới sự kiểm soát của Polotsk) và đánh bại Vseslav II Briacheslavich trong trận chiến trên sông Nemiga vào ngày 3 tháng 3. Vseslav II Briacheslavich bỏ chạy, nhưng sau đó bị bắt một cách tàn nhẫn trong cuộc đàm phán hòa bình vào tháng 6 cùng năm, ông bị đại công tước Iziaslav I cầm tù ở Kiev. Trong cuộc nổi dậy ở Kiev năm 1068, do thất bại dưới tay Kipchaks trên sông Alta và Iziaslav I không sẵn lòng chiến đấu với veche để các thành viên của nó có thể diễu hành và đối mặt với những người du mục lần thứ hai, đám đông đã giải thoát Vseslav II Briacheslavich khỏi nhà tù và tuyên bố ông là Đại công tước của Kiev, buộc Iziaslav I phải chạy trốn sang Ba Lan. Trở về với một đội quân bảy tháng sau đó, Iziaslav I giành lại ngai vàng của mình và Vseslav II Briacheslavich trốn trở lại Polotsk năm 1070. Sau nhiều năm đấu tranh phức tạp với Iziaslav I của Kiev, cuối cùng ông đã bảo đảm được quyền lực ở Polotsk vào năm 1071 và trị vì cho đến cuối đời.

  • Davyd Vseslavich (tại vị:1101–1127, phục vị:1128–1129)

Năm 1127, Davyd Vseslavich mất ngôi bởi Boris I Vseslavich đánh úp và chiếm đoạt. Năm 1128, Đại công tước Nga Kiev Mstislav I Vladimirovich đã tham chiến với Polotsk, nhờ đó phục hồi địa vị của Davyd Vseslavich, nhưng ông mất ngay vào đầu năm sau.

  • Rogvolod-Vasily Borisovich (tại vị:1144–1151, phục vị:1159–1162)

Năm 1151, cư dân Polotsk nổi dậy chống lại Rogvolod-Vasily Borisovich, bắt ông và trao lại cho công tước Minsk Rostislav Glebovich. Rostislav Glebovich giam cầm Rogvolod-Vasily Borisovich trong tù, bản thân ông ta ngồi vào vị trí công tước Polotsk, và trong gia đình của Rogvolod (Drutsk) đã trồng con trai Gleb Rostislavich. Sau đó, theo yêu cầu của Đại công tước Yuri Vladimirovich Dolgoruky, Rogvolod-Vasily Borisovich đã được ra tù và tìm nơi trú ẩn ở Chernigov cùng với Svyatoslav Olgovich, một đồng minh của Yuri Vladimirovich Dolgoruky. Năm 1158, cư dân của Drutsk mời ông trị vì, Rogvolod-Vasily Borisovich với sự giúp đỡ của quân đội mà Svyatoslav Olgovich đã trao cho ông, đã lái Gleb Rostislavich từ Drutsk, trả lại đất đai cho ông. Việc trục xuất Gleb Rostislavich khỏi Drutsk đã gây ra cuộc chiến Minsk, Rostislav Glebovich với Rogvolod-Vasily Borisovich, Rostislav Glebovichi bao vây Drutsk, nhưng kết quả đã không thành công. Cuối cùng, họ đã làm hòa, theo đó Rostislav Glebovichi đã từ chối ủng hộ từ Polotsk, và năm 1159 khi Rostislav Glebovichi rời khỏi Polotsk cũng chính là lúc Rogvolod-Vasily Borisovich trở về với cương vị cũ.

  • Vseslav Vasilkovich (tại vị:1162–1167, phục vị:1167–1175, tái phục vị:1178–1180)

Năm 1167, Volodari Grepovic của công quốc Minsk bất thình lình tấn công công quốc Polotsk, ông ta giành chiến thắng tuyệt vời một cách chớp nhoáng. Vseslav Vasilkovich chạy trốn đến Vitebsk, và Volodar Grepovic dẫn quân đuổi theo ông, nhưng khi biết rằng công tước xứ Smolensk Roman Rostislavich đã gửi lực lượng vữ trang đến giúp đỡ Vseslav Vasilkovich phục bích, Volodar Grepovic đành trở về vùng đất của ông ta. Năm 1175, Vseslav Vasilkovich chuyển sang công quốc Vitebsk đăng cơ lần thứ hai, đến năm 1178 ông lại trở về Polotsk trị vì lần thứ ba. Năm 1377, sau cái chết của Algirdas, Andrei với tư cách là con trai cả, đã cạnh tranh với anh trai cùng cha khác mẹ của mình là Jogaila, người mà Algirdas đã chỉ định làm người thừa kế. Năm 1381, Jogaila đã cố gắng cài đặt người anh em trung thành Skirgaila của mình ở Polotsk, lãnh địa cũ của Andrei. Khi Skirgaila đang bao vây thành phố nổi loạn, Kstutis và con trai Vytautas đã nhân cơ hội này để bắt đầu cuộc nội chiến Litva chống lại Jogaila và loại bỏ ông ta khỏi ngai vàng. Polotsk đã tự nguyện đầu hàng Kstutis, nhờ đó Andrei được phục hồi địa vị lần thứ hai. Năm 1387, quân đội Litva do Skirgaila lãnh đạo đã tấn công Polotsk, Andrei thua liểng xiểng bị bắt sống, con trai của ông Simeon đã chết trong trận chiến, một người con trai khác Ivan trốn thoát đến Pskov. Andrei bị giam cầm ở Ba Lan trong bảy năm, ông được thả ra vào năm 1394 theo yêu cầu của Vytautas. Sau khi tại ngoại, Andrei chuyển đến Pskov, nơi ông cố gắng thương lượng một thỏa thuận ngừng bắn giữa Pskov và Novgorod, tiếp đó ông trở lại Polotsk kiêm nhiệm luôn công tước cho đến khi bị thiệt mạng trong trận chiến sông Vorskla năm 1399.

Công quốc Pskov và Cộng hòa Pskov

Công quốc Pskov

  • Vladimir Mstislavich (tại vị:1208–1213, phục vị:1216–1220)

Năm 1213, Pskopichi không hài lòng với việc Vladimir Mstislavich kết giao với Giám mục thành phố Riga nên đã trục xuất ông khỏi Pskov. Vladimir Mstislavich chạy đến Livonia và lưu trú trong vùng kiểm soát của Edom, giữa Riga và Wenden, vào năm 1216, ông một lần nữa làm công tước ở Pskov.

Cộng hòa Pskov

  • Andrei (tại vị:1342–1348, phục vị:1377–1387, tái phục vị:1394–1399)

phải|nhỏ|193x193px|Andrei phải|nhỏ|352x352px|Dmitry Borisovich phải|nhỏ|331x331px|Konstantin Borisovich Năm 1342, Andrei cùng với cha mình là Đại công tước Litva Algirdas và chú Kęstutis trong một cuộc chiến chống lại trật tự Livonia để giúp đỡ công quốc Pskov, người dân Pskov yêu cầu ông ở lại như một công tước của Pskov để sự hiện diện của ông sẽ đảm bảo sự hỗ trợ liên tục từ Algirdas. Andrei chấp nhận, tuy nhiên, ông ở đó trực tiếp rất ngắn thì trở về Litva sau cái chết của ông chú Vainius (công tước xứ Polotsk), ông quản lý công quốc Pskov thông qua người đại diện Yuri Vitavtavicha. Yuri Vitavtavicha ở lại Pskov cho đến năm 1348, năm đó, các Hiệp sĩ Teutonic đã tổ chức một chiến dịch lớn chống lại Litva. Trong trận Strėva, quân đội của Pskov đang giúp Novgorod chống lại Thụy Điển khi Dòng Livonia tấn công pháo đài Pskov ở Izboursk, Yuri Vitavtavicha chết trong vụ tấn công. Vì người Litva không thể bảo vệ pháo đài, thành phố đã từ chối chấp nhận một đại diện khác của Đại công tước Litva, họ tôn Eustaphy Feodorovich làm công tước của mình. Andrei trả lời với sự trả thù: tất cả các thương nhân Pskov đã bị bắt và tài sản của họ bị tịch thu, do đó mối quan hệ thân thiện của Pskov với Litva chấm dứt. Từ năm 1360–1369 là thời kỳ ngự trị của Alexander, và từ 1369-1377 đến lượt Matvei chấp chính. Năm 1377, dưới áp lực của Jogaila, Andrei đã buộc phải di chuyển từ Polotsk đến Pskov, ông một lần nữa lên ngôi công tước ở đây. Andrew là người đầu tiên trong liên minh với Keystut chống Jogaila, sau cái chết của Keistut tự xưng Grand Prince of Polotsk, và sau Grand Duke của Nga, với thủ đô nằm ở Polotsk. Năm 1387, Andrei đã bị bắt bởi Jogaila, chịu sự kìm kẹp tại một trong những lâu đài ở Ba Lan, ông trở lại làm công tước của cả hai xứ Polotsk và Pskov năm 1394 cho đến khi tử chiến nơi sa trường năm 1399, cộng hòa Pskov cáo chung từ đó

Công quốc Rostov

  • Dmitry Borisovich (tại vị:1278–1286, phục vị:1288–1294)

Năm 1286, sau tám năm đồng cai trị công quốc Rostov cùng anh trai Konstantin Borisovich, theo sự chỉ đạo của Khan Tud-Mengu, giữa Dmitry Borisovich và anh trai của ông, có một phần trong bản vẽ của công quốc Rostov, Dmitry Borisovich đã đến Uglich, còn anh trai Konstantin Borisovich ở lại một mình cầm quyền ở Rostov. Trước đó, vào năm 1285, công tước Roman Vladimirovich của Uglich chết mà không có người nối dõi, Dmitry Borisovich đã kiêm nhiệm công việc ở đây. Năm 1288, Dmitry Borisovich và anh trai của mình có một cuộc trao đổi thừa kế: theo đó Dimitri Borisovich quay về Rostov phục tịch, và Konstantin Borisovich lại chuyển qua Uglich.

  • Konstantin Borisovich (tại vị:1278–1288, phục vị:1294–1307)

Năm 1288, sau khi thất thế trước Dmitry Borisovich, theo thỏa thuận giữa hai anh em, Konstantin Borisovich trao ngôi vị công tước ở Rostov cho Dmitry Borisovich, ông chuyển đến cai trị xứ Uglich. Năm 1294, Dmitry Borisovich qua đời, ông lại quay về làm công tước Rostov, Alexander Konstantinovich tiếp quản công quốc Uglich.

Công quốc Tver

phải|nhỏ|202x202px|Alexander I phải|nhỏ|351x351px|Konstantin

  • Alexander I (tại vị:1326–1327, phục vị:1338–1339)

Năm 1327, một viên tướng là anh họ của Khan Kim Trướng là Baskaki Shevkal đem quân tràn vào cướp phá công quốc Tver, đại công Alexander I đã chỉ huy quần chúng đánh tan đạo quân Khan Kim Trướng xâm lược. Lúc đó, đại công Moskwa là Ivan I, anh trai của đại công bị người Tver giết chết là Iuri, đã lên đường sang đất Hãn quốc Kim Trướng để xin văn bản cho phép hoạt động của Khan Hãn quốc Kim Trướng, đồng thời Hãn quốc Kim Trướng cử 5 vạn quân sang trừng phạt Tver. Biết tin này, Alexander I dẫn gia đình hoàng gia chạy trốn qua Novgorod, rồi Pskov. Nhưng tại Pskov, gia đình Alexander I bị quân Hãn quốc Kim Trướng đuổi theo rất ngặt và đội quân của Ivan I bao vây gắt, ông lại phải chạy trốn sang Lithuania và sau đó đến Thụy Điển. Bị vua Thụy Điển từ chối, Alexander I lại trở về Pskov nương náu dưới sự bảo trợ của Gediminas, Đại công của Lithuania. Bấy giờ, hai người em trai của ông là Konstantin Mikhailovich và Vasily đang trú ở Ladoga, triều đình Tvers do vậy khuyết ngôi đại công gần 1 năm. Năm 1328, Konstantin trở về nước v

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
nhỏ|285x285px| Hình ảnh Tu viện Emmaus nhỏ|289x289px| Tu viện vào cuối thế kỷ 19 **Tu viện Emmaus** ( hay _Emauzský klášter_), thời Trung Cổ còn được gọi là **Na Slovanech**, là một tu viện ở
**Veliky Novgorod** (tiếng Nga: _Великий Новгород_), đơn giản chỉ gọi là **Novgorod** (do vậy, trong phạm vi bài này sẽ dùng từ Novgorod để chỉ thành phố này), là thành phố lịch sử hạng nhất
**Graz** (; tiếng Slovene: _Gradec_, tiếng Séc: _Štýrský Hradec_) là thành phố thủ phủ của bang Steiermark và là thành phố lớn thứ hai tại Áo chỉ sau Viên. Tính đến ngày 1 tháng 1
**Bán đảo Balkan** là một khu vực địa lý ở giữa biển Adriatic và biển Đen ngay góc đông nam của châu Âu, phạm vi chi tiết chiếu theo định nghĩa mà có rất nhiều
thế=Saint Basil's Cathedral, with multicolored onion-shaped domes against a blue sky|nhỏ|354x354px|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily|Nhà thờ chính tòa Saint Basil (1482–95) là một ví dụ điển hình của kiến trúc Moskva Nga.]] **Kiến trúc
**Viên** (phiên âm theo tên tiếng Pháp: _Vienne_) hay **Wien** (tên gốc tiếng Đức, ; tiếng Bavaria: _Wean_) là thủ đô liên bang của Cộng hòa Áo, đồng thời là thành phố lớn nhất, và
**Nikolay Vasilyevich Gogol** ( / **Mykola Vasylovych Gogol**, / **Nikolay Vasilyevich Gogol**, / **Nikolaj Wasiljewicz Gogol**; 01 tháng 4, 1809 - 04 tháng 3, 1852) là một văn sĩ, thi sĩ, kịch tác gia và
**Ku Klux Klan** (), thường được gọi là **KKK** hoặc **Klan,** là một nhóm thù ghét của những người Mỹ da trắng, có mục tiêu chính là người Mỹ gốc Phi. Ku Klux Klan đã
**Trận chiến Lechfeld** là một loạt các cuộc giao tranh quân sự trong suốt ba ngày kể từ ngày 10 tháng 12 năm 955, trong đó, quân Đức của vua Otto I Đại đế đã
**Người Scythia** hay **người Scyth** là một dân tộc Iran bao gồm những người chăn thả gia súc, sống du mục, cưỡi ngựa đã thống trị vùng thảo nguyên Hắc Hải trong suốt thời kỳ
nhỏ|200x200px|Cây sự sống trên thiên đường - Hình minh họa thế kỷ 15 **Cây sự sống** (tiếng Hebrew: עֵץ הַחַיִּים - _Ec ha-Chajim_) là cây trong vườn địa đàng theo Kinh Thánh, sinh trái ăn
**Crete** (, hiện đại: _Kríti_, cổ đại: _Krḗtē_; ) là đảo lớn nhất và đông dân nhất của Hy Lạp, và là đảo lớn thứ năm tại Địa Trung Hải, đồng thời cũng là một
nhỏ| [[Jeanne d'Arc|Joan of Arc được coi là một nữ anh hùng Kitô giáo thời trung cổ của Pháp vì vai trò của cô trong Chiến tranh Trăm năm, và được phong thánh như một