Mông Cổ dưới sự hợp tác của nhà Nguyên là thời kỳ mà nhà Nguyên do Hốt Tất Liệt Hãn thành lập, trị vì trên thảo nguyên Mông Cổ, cụ thể là Nội Mông và Ngoại Mông cũng như một phần của phía nam Siberia. Triều đại này kéo dài khoảng một thế kỷ, từ năm 1271 đến năm 1368. Cao nguyên Mông Cổ là quê hương của người Mông Cổ thuộc triều Nguyên và do đó được hưởng một địa vị đặc biệt; mặc dù thủ đô của vương triều đã được rời từ Karakorum đến Đại Đô vào đầu triều đại của Hốt Tất Liệt Hãn và Mông Cổ trở thành một tỉnh vào đầu thế kỷ XIV.
Lịch sử
phải|nhỏ|Lãnh thổ nhà Nguyên vào năm 1294.
Người Mông Cổ đến từ thảo nguyên Mông Cổ và Karakorum (Hòa Lâm) là thủ đô của Đế quốc Mông Cổ cho đến 1260. Trong Nội chiến gia tộc Đà Lôi, Mông Cổ đã được kiểm soát bởi A Lý Bất Ca, một em trai của Hốt Tất Liệt. Sau chiến thắng của Hốt Tất Liệt trước A Lý Bất Ca, nhà Nguyên được thành lập ở Trung Quốc vào năm 1271 và cả Trung Quốc và Mông Cổ đều được đặt ở Phúc Lý (腹裏) trực tiếp điều hành bởi Trung thư tỉnh của nhà Nguyên tại thủ đô Khanbaliq (Đại Đô). Mặc dù Karakorum không còn là thủ đô của đế quốc và Mông Cổ đã mất đi một phần tầm quan trọng của nó, vì là quê hương của người Mông Cổ, nó vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ cả về mặt chính trị và quân sự đối với các khu vực khác của đế chế. Có rất nhiều hoàng tử Mông Cổ tập trung ở thảo nguyên Mông Cổ, ảnh hưởng của họ mở rộng đến kinh đô của nhà Nguyên. Trên thực tế, để duy trì tuyên bố của mình là Đại hãn, Hốt Tất Liệt đã có những nỗ lực đáng kể để kiểm soát và khôi phục hòa bình ở Mông Cổ sau nội chiến Đà Lôi. Năm 1266, Na Mộc Hãn, một trong những người con trai yêu quý của Hốt Tất Liệt, được phái đến Mông Cổ để trấn giữ phía bắc.
Trong Chiến tranh Hải Đô – Hốt Tất Liệt kéo dài vài thập kỷ, Hải Đô, người cai trị de facto của Hãn quốc Sát Hợp Đài, đã cố gắng giành quyền kiểm soát Mông Cổ từ tay Hốt Tất Liệt. Trên thực tế, ông ta đã chiếm một phần lớn lãnh thổ của Mông Cổ trong thời gian ngắn, mặc dù sau đó nó đã được chỉ huy nhà Nguyên là Bá Nhan phục hồi. Thiết Mộc Nhĩ Hãn sau đó được bổ nhiệm làm trấn thủ ở Karakorum và Bá Nhan trở thành tổng binh. Trong cuộc khởi nghĩa Nãi Nhan chống lại Hốt Tất Liệt ở Mãn Châu vào cuối những năm 1280, Nayan đã cố gắng liên lạc với các hoàng tử Mông Cổ ở quê hương Mông Cổ, mặc dù hầu hết họ đều không đồng ý ủng hộ ông sau một cuộc dàn xếp của Hốt Tất Liệt. Rốt cuộc, triều đình nhà Nguyên cần sự trung thành của cả tầng lớp quý tộc Mông Cổ ngay cả khi họ buộc phải tấn công từng thành viên. Sau cái chết của thái tử Chân Kim vào năm 1286, Hốt Tất Liệt quyết định đưa con trai của Chân Kim là Thiết Mộc Nhĩ lên kế vị. Sau cái chết của Hốt Tất Liệt vào năm 1294, Thiết Mộc Nhĩ, người trước đây từng đóng quân ở Mông Cổ, trở về kinh đô của nhà Nguyên để trở thành người cai trị tiếp theo của đế chế. Trong thời gian cai trị của mình, Khúc Luật, người sẽ trở thành hoàng đế nhà Nguyên thứ ba sau cái chết của Thiết Mộc Nhĩ, đã được cử đến Mông Cổ để chỉ huy một đội quân bảo vệ mặt trận phía tây của quân Nguyên chống lại Hải Đô và các hoàng tử khác của Trung Á dưới quyền anh ta. Năm 1307, khi Thiết Mộc Nhĩ Hãn qua đời, ông quay trở lại Karakorum về phía đông và theo dõi tình hình. Cuối cùng ông đã kế vị ngai vàng với sự ủng hộ của mẹ và em trai, Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt. Ngay sau khi Khúc Luật Hãn lên ngôi, Mông Cổ được đặt dưới quyền của Hòa Lâm đẳng sử hành trung thư tỉnh (和林等處行中書省) hoặc đơn giản là tỉnh Hòa Lâm (和林行省), mặc dù các bộ phận của Nội Mông vẫn được cai quản bởi Trung thư tỉnh. Nó được đổi tên thành Lãnh Bắc đẳng sử hành trung thư tỉnh (嶺北等處行中書省) hoặc đơn giản gọi là Lãnh Bắc hành tỉnh (嶺北行省) bởi người kế vị Ayurbarwada vào năm 1312.
Việc thành lập tỉnh ở Mông Cổ đã làm giảm tầm quan trọng của các hoàng tử trong vùng thảo nguyên, nhưng nó không ngăn cản được việc Dã Tôn Thiết Mộc Nhi vào năm 1323 với tư cách là một "dự bổ thảo nguyên" cộng tác chặt chẽ với những kẻ chủ mưu trong triều đình của Cách Kiên Hãn. Trong nội chiến của triều đại nhà Nguyên được gọi là Chiến tranh hai đô sau cái chết của Dã Tôn Thiết Mộc Nhi, tỉnh Lãnh Bắc đã hỗ trợ những người trung thành tại Thượng Đô và chiến đấu chống lại Yên Thiếp Mộc Nhi và Trát Nha Đốc Hãn Đồ Thiếp Mục Nhi, nhưng cuối cùng họ đã bị nghiền nát bởi lực lượng của người sau. Sau cuộc nội chiến, Đồ Thiếp Mục Nhi thoái vị để ủng hộ anh trai mình Hòa Thế Lạt, người lên ngôi vào ngày 27 tháng 2 năm 1329 ở phía Bắc Karakorum. Tuy nhiên, ông đột ngột qua đời chỉ bốn ngày sau bữa tiệc linh đình với Đồ Thiếp Mục Nhi trên đường đến Khanbaliq (Đại Đô). Sau đó, Đồ Thiếp Mục Nhi được khôi phục lại ngai vàng vào ngày 8 tháng 9. Sau khi chiếm được kinh đô của nhà Nguyên bởi nhà Minh do người Hán thành lập vào năm 1368, hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyên Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ đã chạy trốn lên phía Bắc đến Thượng Đô, sau đó đến Ứng Xương và chết ở đó vào năm 1370. Người Mông Cổ dưới quyền của con trai và người kế vị Tất Lý Khắc Đồ Hãn Ái Du Thức Lý Đạt Lạp đã rút lui về thảo nguyên Mông Cổ và chiến đấu chống lại nhà Minh. Quê hương Mông Cổ trở thành trung tâm cai trị của Bắc Nguyên, kéo dài cho đến thế kỷ 17.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mông Cổ dưới sự hợp tác của nhà Nguyên** là thời kỳ mà nhà Nguyên do Hốt Tất Liệt Hãn thành lập, trị vì trên thảo nguyên Mông Cổ, cụ thể là Nội Mông và
**Mông Cổ thuộc Thanh** (chữ Hán: 清代蒙古), còn gọi là **Mông Cổ Minh kỳ** (蒙古盟旗), là sự cai trị của nhà Thanh của Trung Quốc trên thảo nguyên Mông Cổ, bao gồm cả bốn aimag
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Nội Mông Cổ** (Tiếng Trung Quốc: **内蒙古自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Nèi Méng Gǔ Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Nội Mông Cổ tự trị Khu Nhân dân
**Tiếng Mông Cổ nguyên thủy** là ngôn ngữ tổ tiên giả định của các ngôn ngữ Mông Cổ hiện đại. Nó rất gần với tiếng Mông Cổ trung đại được sử dụng vào thời Thành
Một món hầm của người Mông Cổ **Ẩm thực Mông Cổ** là nền ẩm thực truyền thống ở đất nước Mông Cổ và các món ăn mang phong cách Mông Cổ khác. Khí hậu kiểu
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
****, sự kiện diễn ra năm 1274 và năm 1281, bao gồm những nỗ lực quân sự quy mô lớn do Hốt Tất Liệt của Đế quốc Mông Cổ tiến hành nhằm chinh phục quần
**Hệ động vật ở Mông Cổ** là tập hợp các quần thể động vật đang sinh sống tại Mông Cổ hợp thành hệ động vật ở quốc gia này. Đặc trưng của hệ sinh thái
Là một phần của Mông Cổ xâm lược Châu Âu, Đế chế Mông Cổ đã xâm chiếm Rus Kiev vào thế kỷ XIII, phá hủy nhiều thành phố, bao gồm Ryazan, Kolomna, Moskva, Vladimir và
Văn hoá truyền thống của Mông Cổ là văn hoá thảo nguyên tiếp biến qua nhiều năm lịch sử, do đó, hình tượng con ngựa luôn gắn bó với người dân du mục thảo nguyên.
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
## Thời kỳ đầu tiên nhỏ|trái|Lãnh thổ của người Hung Nô dưới thời vua Mặc Đốn Vùng đất Mông Cổ ngày nay từng là nơi sinh sống của rất nhiều tộc người từ thời tiền
**Ngựa Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: Адуу, _aduu_: có nghĩa là con ngựa) là giống ngựa bản địa của Mông Cổ, đây là nòi ngựa chiến nổi tiếng sinh ra trên các vùng thảo nguyên
nhỏ|phải|Giáp trụ của chiến binh Mông Cổ thumb|Cung thủ kỵ binh Mông Cổ. Ảnh trong tác phẩm [[Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani.]] **Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông
**Quân Mông Cổ bao vây Khai Phong** từ năm 1232 đến năm 1233, kết quả là chiếm được Biện Kinh của triều Kim. Người Mông Cổ và Kim khi đó đã giao chiến trong gần
**Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly** (1231 - 1273) là cuộc xâm lăng Vương quốc Cao Ly (vương triều cai trị bán đảo Triều Tiên từ năm 918 đến năm 1392) của Đế quốc
**Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ** ( (БНМАУ), Tập tin:Mongolian People's Republic.svg, _Bügd Nairamdakh Mongol Ard Uls (BNMAU)_) là một nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại ở vùng Đông Á từ năm 1924
Thủ đô [[Ulaanbaatar|Ulan Bator là cổng của hầu hết các quan hệ và thương mại trong nước và quốc tế]] **Kinh tế Mông Cổ** phản ánh tình hình và các hoạt động kinh tế tại
phải|nhỏ|453x453px|Cảnh quan Mông Cổ **Nông nghiệp ở Mông Cổ** chiếm trên 10% tổng sản phẩm quốc nội hàng năm của Mông Cổ và sử dụng một phần ba lực lượng lao động. Tuy nhiên, địa
**Ngựa hoang Mông Cổ** hay còn gọi là **ngựa hoang Przewalski** Khalkha , **takhi**; Ak Kaba Tuvan: [] **dagy**; tiếng Ba Lan: ) hay còn được gọi theo tên khác là **ngựa hoang châu Á**
**Đảng Nhân dân Mông Cổ** thành lập ngày 01 tháng 3 năm 1921, là chính đảng duy nhất lãnh đạo xã hội Mông Cổ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Mông Cổ. Từ
**Đại Mông Cổ** là một khu vực địa lý, bao gồm các vùng lãnh thổ tiếp giáp nhau, chủ yếu là các sắc tộc người Mông Cổ sinh sống. Nó bao gồm gần đúng nhà
**Mông Cổ** (, _Mongolchuud_, ) định nghĩa là một hay một vài dân tộc, hiện nay chủ yếu cư trú tại Trung Quốc, Mông Cổ và Nga. Ước tính có khoảng 11 triệu người Mông
nhỏ|phải|Một trận đấu vật Mông Cổ **Đấu vật Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: _Bökh_, ᠪᠥᠬᠡ, _Бөх_ hoặc _Үндэсний бөх_) là phong cách đấu vật cổ truyền của người Mông Cổ ở vùng Mông Cổ, vùng
Đây là danh sách các vua hay thủ lĩnh cai trị Người Mông Cổ. Danh sách trình bày theo thứ tự thời gian với các triều đại khác nhau. ## Mông Ngột Quốc (thập niên
Cuộc xâm lược Trung Á của Mông Cổ được tiến hành sau sự thống nhất các bộ lạc người Mông Cổ và Đột Quyết trên thảo nguyên Mông Cổ năm 1206. Cuộc xâm lược này
**Đại hãn quốc Mông Cổ** () là chính phủ Mông Cổ (Ngoại Mông Cổ) giữa năm 1911 và 1919, và một lần nữa từ 1921 tới 1924. Vào mùa xuân năm 1911, một số quý
**Mông Cổ Dauria** hay **Mông Cổ Daguur** () là một thảo nguyên, vùng đất ngập nước nằm tại Mông Cổ, được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới, đồng thời cũng
**Mông Cổ** hiện nay là một nước Cộng hòa dân chủ đại nghị bán tổng thống, theo đó tổng thống được bầu cử trực tiếp. Nhân dân cũng chọn ra các đại biểu quốc hội,
**Các hồ tại Mông Cổ** được phân bố không đồng đều. Nhiều hồ trong số đó, bao gồm những hồ lớn nhất đều thuộc Vùng lõm Đại Hồ giữa Altai, Khangai và Tannu-Ola ở phía
**Giáo hội Công giáo ở Mông Cổ** là một phần của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ, dưới sự lãnh đạo tinh thần của Giáo hoàng ở Vatican. Có khoảng 1.300 người Công giáo ở
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Cao Ly dưới sự cai trị của Mông Cổ** đề cập đến sự cai trị của Đế quốc Mông Cổ trên Bán đảo Triều Tiên từ khoảng năm 1270 đến năm 1356. Sau cuộc xâm
**Nguyên Minh Tông** hay **Hốt Đô Đốc hãn** (chữ Hán: 忽都篤汗, ; 22 tháng 12, 1300 - 30 tháng 8 1329), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Hòa Thế Lạt** (孛兒只斤和世㻋, Borjigin Küsele, ),
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ
**Biểu tình Nội Mông** **2020** là một loạt các cuộc biểu tình kéo dài nhiều ngày, bắt đầu nổ ra từ cuối tháng 8 năm 2020 tại Khu tự trị Nội Mông Cổ, phía bắc
**Mẫn Huệ Cung Hoà Nguyên phi** (chữ Hán: 敏惠恭和元妃; 1609 – 1641), được biết đến với tên gọi **Hải Lan Châu** (海蘭珠), là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thái Tông Hoàng
**Mộng Lân** (, chữ Hán: 梦麟, 1728 – 1758), tên tự là **Văn Tử**, tự khác là **Thụy Chiêm**, người thị tộc Tây Lỗ Đặc, dân tộc Mông Cổ, thuộc Mông Cổ Chính Bạch kỳ,
nhỏ|phải|Một con cừu Mông Cổ **Cừu Mông Cổ** là các giống cừu hiện đang được chăn nuôi ở Mông Cổ, kể cả vùng Nội Mông. Cừu Mông Cổ là một trong những gia súc quan
nhỏ|phải|Cờ của Đảng nhân dân Nội Mông Cổ **Đảng nhân dân Nội Mông Cổ**, viết tắt theo tiếng Anh là **IMPP** (Inner Mongolian People's Party; ; , hay 内人党, pinyin: nèiréndǎng) là một phong trào
**Móng rồng Tây Nguyên** (danh pháp: **_Artabotrys taynguyenensis_**) là loài thực vật có hoa thuộc họ Na. Loài này được Bân mô tả khoa học đầu tiên năm 2000.
**Tô Ma Lạt Cô** (chữ Hán: 苏麻喇姑, bính âm: _Sumalagu_; ? - 24 tháng 10 năm 1705) là một Thị nữ hầu hạ thân cận của Hiếu Trang Văn Hoàng hậu. Dù không phải là
**Ngô Nhĩ Cổ Đại** ( , hoặc , ), cũng dịch thành "Ngột Nhi Hốt Thái" (兀兒忽太), "Ô Nhĩ Cố Đại" (烏爾古岱), là con trai của Mạnh Cách Bố Lộc, là Cáp Đạt Bối lặc
Các chiến dịch của Minh Thành Tổ bắc phạt quân Mông Cổ (1410-1424) là chiến dịch quân sự của Trung Quốc dưới thời Hoàng đế Minh Thành Tổ chống lại quân Mông Cổ ở phía
**Nội Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: Hình:Oburmonggul.svg, _Öbür Monggol_; ), tên chính thức là **Khu tự trị Nội Mông Cổ,** thường được gọi tắt là **Nội Mông**, là một khu tự trị của Cộng hòa
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Địa hạt Tuyên Chính Viện** () là tên gọi của Tây Tạng trong thời kỳ **thuộc Nguyên** từ năm 1270 đến năm 1354, cũng được gọi là _thời kỳ Sakya_ hoặc _triều đại Sakya_ theo