✨Đế quốc Khwarazm

Đế quốc Khwarazm

Đế quốc Khwarazm, sử liệu Trung Quốc phiên âm là Hoa Lạt Tử Mô, là một đế chế Hồi giáo dòng Sunni của người Thổ-Ba Tư cai trị phần lớn Trung Á, Afghanistan và Iran ngày nay. Trong giai đoạn 1077 đến 1231, đầu tiên nó là chư hầu của Đế quốc Seljuk và Qara Khitai (triều đại Tây Liêu), và sau đó trở nên độc lập, cho đến khi bị Đế quốc Mông Cổ chinh phục vào thế kỷ XIII. Người ta ước tính rằng đế chế này trải dài trên diện tích từ 2,3 triệu km2 đến 3,6 triệu km2 vào đầu thế kỷ XIII, khiến nó trở thành một trong những đế chế trên đất liền lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Ngày thành lập nhà nước Khwarazmshahs vẫn còn gây tranh cãi. Vương triều cai trị đế chế được thành lập bởi Anush Tigin (còn được gọi là Gharachai), ban đầu là nô lệ người Thổ của những nhà cai trị Gharchistan, sau đó trở thành Mamluk phục vụ cho Seljuqs. Tuy nhiên, chính Ala ad-Din Atsiz, hậu duệ của Anush Tigin, người đã giành được độc lập cho Khwarazm khỏi các nước láng giềng.

Năm 1220, người Mông Cổ dưới sự cai trị của Thành Cát Tư Hãn đã xâm lược Đế chế Khwarazmia, chinh phục thành công toàn bộ nó trong vòng chưa đầy hai năm. Người Mông Cổ đã khai thác những điểm yếu và xung đột hiện có trong đế chế, bao vây và cướp bóc những thành phố giàu có nhất, đồng thời tạo ra một trong những cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại.

Lịch sử

Lịch sử ban đầu

Tước hiệu Khwarazmshah được người sáng lập triều đại Afrigid giới thiệu vào năm 305 sau Công nguyên và tồn tại cho đến năm 995. Sau một thời gian ngắn gián đoạn, tước hiệu này đã được phục hồi. Trong cuộc nổi dậy ở Khwarazm năm 1017, quân nổi dậy đã giết chết nhà cai trị Khwarazm lúc bấy giờ là Abu'l-Abbas Ma'mun và vợ của ông ta là Khurra-ji, em gái của Sultan Mahmud, người cai trị của Ghaznavid. Đáp lại, Mahmud xâm lược khu vực để dập tắt cuộc nổi loạn. Sau đó, ông đã lập lên một nhà cai trị mới và sáp nhập một phần của Khwarazm. Kết quả là Khwarazm trở thành một tỉnh của đế chế Ghaznavid và duy trì như vậy cho đến năm 1034.

Năm 1077, quyền kiểm soát khu vực, trước đây thuộc về người Seljuq từ năm 1042 đến năm 1043, được chuyển vào tay Anushtegin Gharchai, một chỉ huy mamluk người Thổ Nhĩ Kỳ của Nhà Seljuq. Năm 1097, thống đốc Khwarazm gốc Thổ là Ekinchi ibn Qochqar tuyên bố độc lập khỏi Seljuqs và tự xưng là vua của Khwarazm. Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn, ông ta bị giết bởi một số người có cảm tình với Seljuq trong một cuộc nổi dậy. Sau đó, ông được thay thế bằng con trai của Anush Tigin Gharachai là Qutb al-Din Muhammad bởi Seljuqs, những người đã tái chiếm khu vực. Do đó, Qutb al-Din trở thành Khwarazmshah cha truyền con nối đầu tiên.

Nổi lên

Anushtegin Gharachai

thumb|[[Gốm Mina'i với hình tượng một nhà cai trị lên ngôi. Đầu thế kỷ XIII, Iran.]] Anushtegin Gharachai là một người Thổ, chỉ huy mamluk của Nhà Seljuq và là thống đốc của Khwarazm từ khoảng năm 1077 đến năm 1097. Ông là thành viên đầu tiên trong Gia đình cai trị Khwarazm, và là tên gọi của triều đại sẽ cai trị tỉnh này vào thế kỷ XII và đầu thế kỷ XIII.

Anushtegin được chỉ huy cùng với Al-Taj Gümüshtegin vào năm 1073 bởi sultan của Seljuq là Malik Shah I để chiếm lại lãnh thổ ở phía Bắc Đại Khorasan mà người Ghaznavid đã chiếm giữ. Sau đó, ông được phong làm tasht-dar của sultan (tiếng Ba Tư: "người giữ kim khí hoàng gia"), và vì doanh thu từ Khwarazm được dùng để chi trả cho các chi phí phát sinh ở địa phương này, ông được phong làm thống đốc của tỉnh. Không rõ chi tiết về nhiệm kỳ thống đốc của ông, nhưng ông qua đời vào năm 1097 và chức vụ này được trao một thời gian ngắn cho Ekinchi bin Qochqar trước khi được chuyển giao cho con trai ông, Qutb al-Din Muhammad.

Mở rộng lãnh thổ

Suy yếu và sụp đổ

Bộ máy cai trị

Thủ phủ

Dân cư

Dân số của Đế chế Kwarazmian bao gồm chủ yếu là người Iran định cư và người Thổ Nhĩ Kỳ nửa du mục.

Dân số đô thị của đế chế tập trung ở một số lượng tương đối nhỏ (theo tiêu chuẩn thời trung cổ) các thành phố rất lớn trái ngược với một số lượng lớn các thị trấn nhỏ hơn. Dân số của đế chế được ước tính là 5 triệu người vào đêm trước cuộc xâm lược của người Mông Cổ vào năm 1220, khiến nó trở nên thưa thớt trên một khu vực rộng lớn. Các nhà nhân khẩu học lịch sử Tertius Chandler và Gerald Fox đưa ra những ước tính sau đây cho dân số của các thành phố lớn của đế chế vào đầu thế kỷ XIII, cộng lại ít nhất 520.000 và nhiều nhất là 850.000 người:

  • Samarqand: 80.000–100.000
  • Nishapur: 70.000
  • Rayy/Rey: 100.000
  • Isfahan: 80.000
  • Merv: 70.000
  • Balkh: c. 30.000
  • Bost: c. 40.000
  • Herat: c. 40.000
  • Otrar, Urgench, và Bukhara: không rõ, nhưng ít hơn 70.000.

Văn hoá

Ngôn ngữ

Quân đội

Người ta ước tính rằng quân đội Khwarazmia, trước cuộc xâm lược của người Mông Cổ, bao gồm khoảng 40.000 kỵ binh, chủ yếu là người Thổ. Lực lượng dân quân tồn tại ở các thành phố lớn của Khwarazm nhưng chất lượng kém. Với tổng số quân khoảng 700.000 người, các thành phố lớn có thể có tổng cộng 105.000 đến 140.000 nam giới khỏe mạnh trong độ tuổi chiến đấu (15–20% dân số), nhưng chỉ một phần nhỏ trong số này sẽ là một phần của lực lượng dân quân chính thức được đào tạo và trang bị vũ khí chiến đấu.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đế quốc Khwarazm**, sử liệu Trung Quốc phiên âm là **Hoa Lạt Tử Mô**, là một đế chế Hồi giáo dòng Sunni của người Thổ-Ba Tư cai trị phần lớn Trung Á, Afghanistan và Iran
**Cuộc xâm lược Khwarezmia** bắt đầu từ 1219 đến 1221 đánh dấu điểm khởi đầu của quá trình người Mông Cổ chinh phục các nhà nước Hồi giáo. Sự bành trướng của Mông Cổ cuối
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Đà Lôi** (;  – 1232) là con trai út của Thành Cát Tư Hãn và Bột Nhi Thiếp. Với tư cách là một trong những võ tướng nổi bật nhất tham gia các cuộc chinh
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
**`Ala ad-Din Muhammad II** là vị vua của nhà Khwarezm-Shah (Hoa Lạt Tử Mô) ở Ba Tư vào thế kỷ XIII, trị vì từ năm 1200 đến 1220. Ông là một nhà chinh phạt lớn,
**Bao vây Baghdad** diễn ra từ ngày 19 tháng 1 đến 10 tháng 2 năm 1258 khi quân Mông Cổ thuộc Hãn quốc Y Nhi và đồng minh tiến hành bao vây, chiếm lĩnh và
**Truật Xích** (; – ) là một hoàng tử của Đế quốc Mông Cổ. Tuy cuộc đời gắn liền với những tranh cãi và đồn thổi xung quanh hoàn cảnh sinh đẻ và thân thế
**Mông Cổ chinh phục Tây Hạ** hay **Chiến tranh Mông - Hạ** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Mông Cổ và vương quốc Tây Hạ của người Đảng Hạng. Với sự
**Thiếp Mộc Nhi** ( _Timūr_, tiếng Sát Hợp Đài: **', , chữ Hán: 帖木兒; 8 tháng 4 năm 1336— 18 tháng 2 năm 1405), còn được biết đến trong sử sách với tên gọi **Tamerlane_'
**Hãn quốc Kara-Khanid** hay **Khách Lạt Hãn quốc** là một liên minh của các bộ lạc Đột Quyết được một triều đại cai trị, triều đại này trong sử sách được gọi là **Karakhanid** (cũng
Cuộc **Thập Tự Chinh Nhân Dân** (hoặc **Thập tự chinh của dân chúng**), còn được gọi là Cuộc **Thập tự chinh của người nghèo**, Cuộc **Thập tự chinh Nông dân** là một loạt các cuộc
**Sát Hợp Đài** (;  – 1242) là một hoàng tử của Đế quốc Mông Cổ, con trai thứ của Thành Cát Tư Hãn và chính thất Bột Nhi Thiếp. Ông nổi tiếng vì thông thạo
Danh sách này bao gồm các loại tiền tệ ở hiện tại và trong quá khứ. Tên địa phương của tiền tệ được sử dụng trong danh sách này kèm theo tên quốc gia hoặc
**Trục xuất người Triều Tiên ở Liên Xô** (, ) là việc cưỡng bức di cư gần 172.000 người Triều Tiên từ Viễn Đông Nga sang Trung Á vào năm 1937 theo chỉ thị của
**Trung Á** là một vùng của châu Á không tiếp giáp với đại dương. Có nhiều định nghĩa về Trung Á, nhưng không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi. Các tính chất
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
**Gia Luật Đại Thạch** (耶律大石 Yēlǜ Dàshi) hay _Gia Luật Đạt Thực_ (耶律達實 Yēlǜ Dáshí) là người sáng lập nên vương triều Tây Liêu. Trong các tài liệu Hồi giáo, ông được biết đến với
**Khiva** (; ; ; các tên lịch sử hoặc tên thay thế: _Khorasam_, _Khoresm_, _Khwarezm_, _Khwarizm_, _Khwarazm_, _Chorezm_, và ) là một thành phố xấp xỉ 50.000 dân thuộc tỉnh Xorazm, Uzbekistan. Đây từng là
**Konye-Urgench** (tiếng Turkmenistan: _Köneürgenç_, Nga: _Куня Ургенч_, Ba Tư: _Kuhna Gurgānj کهنه گرگانج_) còn được gọi là **Konya-Urgench**, **Urgench cổ** hoặc **Urganj**, là một đô thị với dân số khoảng 30.000 người ở phía bắc
**Mahmud II** (tên đầy đủ: _Mahmud bin Muhammad bin Malikshah_; tiếng Ba Tư: محمود بن محمد بن ملكشاه; 1105 – 1131) là hoàng đế (Sultan) của Seljuk ở Baghdad kể từ năm 1118 sau cái