✨Kara-Khanid

Kara-Khanid

Hãn quốc Kara-Khanid hay Khách Lạt Hãn quốc là một liên minh của các bộ lạc Đột Quyết được một triều đại cai trị, triều đại này trong sử sách được gọi là Karakhanid (cũng viết Qarakhanid) hay Ilek Khanid, (, Qarākhānīyān hay , Khakānīya, Hắc Hãn , Đào Hoa Thạch ). Tất cả các tên gọi đều đại diện cho tước hiệu của Kara Kağan (Khách Lạt khả hãn), một tước hiệu quan trọng nhất của người Đột Quyết cho đến khi kết thúc triều đại.

Hãn quốc đã chinh phục được Transoxiana tại Trung Á và cai trị nơi này từ 999–1211. Việc họ đến Transoxiana là dấu hiệu về sự chuyển đổi cuối cùng trong quyền thống trị Trung Á, quyền này từ nay đã được chuyển từ tay người Ba Tư sang người Đột Quyết. và được các nhà Đông phương học châu Âu đưa ra vào thế kỷ 19 để mô tả cả triều đại và hãn quốc Đột Quyết mà họ cai trị. Trong hoạt động tổ chức lại quyền lực sau đó, người Cát La Lộc được nâng từ một bộ lạc dưới quyền một el teber thành một thế lực do diệp hộ (yabghu) lãnh đạo; diệp hộ trở thành một trong các chức tước cao nhất của người Đột Quyết, cũng có ngụ ý là thành viên của gia tộc Ashina, những người được "thượng đế ủy nhiệm" quyền cai trị dân cư. Người Cát La Lộc và người Duy Ngô Nhĩ sau đó liên minh với nhau để chống lại người Bạt Tất Mật, và trong vòng hai năm, liên minh đã lật đổ được khả hãn của người Bạt Tất Mật. Diệp hộ của người Duy Ngô Nhĩ trở thành khả hãn là lãnh đạo người Cát La Lộc là diệp hộ. Sự sắp xếp này kéo dài chưa đến một năm. Thù địch giữa hai sắc dân đã buộc người Cát La Lộc phải thiên di về phía tây đến miền tây của Turgesh.

Năm 766, người Cát La Lộc The Karluks đã khuất phục được phía tây của Turgesh (Đột Kị Thi) và lập đô tại Suyab ven sông Chuy. Liên minh Cát La Lộc lúc này còn bao gồm các bộ lạc Chigil và Tukshi, những người này có thể là các bộ lạc Türgesh đã hợp nhất vào liên minh của người Cát La Lộc. Vào giữa thế kỷ 9, liên minh Cát La Lộc giành quyền kiểm soát các vùng đất thiêng của người Tây Đột Quyết sau khi Hồi Cốt bị người Kyrgyz xâm chiếm. Việc kiểm soát các vùng đất thiêng cùng với việc được nhận làm thành viên của gia tộc Ashina, đã cho phép người Cát La Lộc giành lấy tước hiệu khả hãn cùng với quyền thống trị các thảo nguyên sau khi khả hãn Turgesh trước đó bị giết trong một cuộc nổi dậy.

Vào thế kỷ thứ 9, miền nam của Trung Á nằm dưới quyền kiểm soát của triều Samanid, trong khi thảo nguyên Trung Á do những người du mục gốc Đột Quyết thống trị, như Pecheneg, Oghuz, và Cát La Lộc (Karluk). Lãnh địa của người Cát La Lộc về phía bắc xa bằng liên minh Irtysh và Kimek, với các ngôi lều kéo dài đến các sông Chi và Ili, nơi các bộ lạc Chigil và Tukshi sinh sống, về phía đông đạt đến thung lũng Ferghana và xa hơn nữa. Phía nam và phía đông của lãnh địa là nơi người Yaghma định cư. Trung tâm của liên minh Cát La Lộc vào thế kỷ 9 và 10 xuất hiện tại Balasagun trên sông Chu (hay sông Chuy). Vào cuối thế kỷ 9, triều Samanid hành quân đến thảo nguyên và chiếm được Taraz, một trong những đại bản doanh của khả hãn Cát La Lộc, và một nhà thờ lớn đã được chuyển thành một nhà thờ Hồi giáo. nhỏ|Lăng mộ Sultan Satuk Bughra Khan, hãn Hồi giáo đầu tiên, tại [[Artush, Tân Cương]]

Thành lập Hãn quốc Kara-Khanid

Vào thế kỷ thứ 9, liên minh Cát La Lộc (bao gồm các bộ lạc Chigil và Tukshi có nguồn gốc Türgesh) và Yaghma, có thể là hậu duệ của người Toquz Oghuz, đã tập hợp lực lượng và lập nên Hãn quốc Karluk-Kara-Khanid. Người Chigils hình thành đội quân nòng cốt của hãn quốc. Các nguồn sử liệu đưa ra các thời điểm khác nhau về ngày thành lập và tên của vị hãn đầu tiên, song những người cai trị Kara-Khanid có khả năng xuất thân từ các bộ lạc Chigil và Yaghma - các khả hãn phía Đông mang tước hiệu Arslan Qara Khaqan (Arslan "sư tử" và vật tổ của người Chigil) và các Khả hãn phía Tây mang tước hiệu Bughra Qara Khaqan (Bughra "lạc đà đực" là vật tổ của người Yaghma). Tên của các loài động vật là một yếu tố thường xuyên trong tước hiệu Đột Quyết của Kara-Khanid: Aslan (sư tử), Bughra (lạc đà), Toghan (chim ưng), Böri (sói), Toghrul hay Toghrïl (một loài chim săn mồi)... Tước hiệu của các thành viên trong vương triều thay đổi theo vị trí của họ.

Vaog giữa thế kỷ 10, Kara-Khanid cải sang Hồi giáo và tiếp nhận tên và các kính ngữ Hồi giáo, song vẫn duy trì các tước hiệu triều đại Đột Quyết như Hãn, Khả hãn, Ilek (Ilig) và Tegin (đặc cần). Về sau họ chấp nhận tước hiệu Ả Rập là sultan và sultān al-salātīn (sultan của các sultan). Theo sử gia Ottoman được gọi là Munajjim-bashi, một hoàng tử Kara-Khanid tên là Satuk Bughra Khan là vị hãn đầu tiên chuyển đổi tước hiệu. Sau khi chuyển đổi, ông đưa ra một fatwa (phán quyết dựa theo đức tin Hồi giáo), cho phép ông có quyền lực để giết chết người cha có lẽ vẫn là ngoại giáo của mình sau khi ông chinh phục Kashgar. Sau đó đến năm 960, theo các sử gia Hồi giáo Ibn Miskawaih và Ibn al-Athir, người Đột Quyết đã có sự biến đổi to lớn (ghi nhận "200.000 lều của người Đột Quyết"), bằng chứng gián tiếp khẳng định đó là Kara-Khanid. Năm 1017-1018, Kara-Khanid đã đẩy lùi một cuộc tấn công của một lực lượng đông đảo các bộ lạc Đột Quyết du mục, điều này được mô tả trong các nguồn Hồi giáo như một chiến thắng vĩ đại. Các anh em Ahmad và Nasr đã tiến hành các chính sách khác nhau với Ghaznavid ở phía nam - trong khi Ahmad cố lập liên minh với Mahmud của Ghazna thì Nasr lại cố gắng chiếm các lãnh thổ của Ghazvanid song không thành công. Năm 1141 Tây Liêu trở thành thế lực thống trị trong khu vực sau khi họ đánh bại Sultan Sanjar, vị Đại đế cuối cùng của Seljuk trong trận Qatwan gần Samarkand. Một số tướng lĩnh thuộc dòng dõi Kara-Khani như cha của Osman của Khwarezm, đã đào thoát khỏi vùng đất của Kara-Khanid trong cuộc xâm lược của Tây Liêu.

Tuy nhiên, Tây Liêu đã không tiêu diệt triều đại Kara-Khanid. Thay vào đó, người Khiết Đan ở tại Semirech'e với đại bản doanh ở gần Balasaghun, và cho phép một số thành viên của dòng dõi Kara-Khanid cai trị như những chư hầu tại Samarkand và Kashgar, các Kara-Khanid đóng vai trò thu thuế và quản lý số dân Hồi giáo (Kim Trướng hãn quốc cũng tiến hành điều tương tự trên thảo nguyên Nga). Tây Liêu là một triều đại Phật giáo và Shaman giáo, trong khi họ lại cai trị một lãnh địa Kara-Khanid Hồi giáo rộng lớn, mặc dù vậy họ được coi là những người lãnh đạo có tinh thần công bằng khi đã thực hiện khoan dung tôn giáo.

Sụp đổ

Sự sụp đổ của Seljuk sau khi bị Tây Liêu đánh bại đã cho phép Khwarezmid, trước đây vốn là chư hầu của Tây Liêu, đã mở rộng lãnh thổ ra các lãnh địa trước đó của Seljuk. Năm 1207, các cư dân của Bukhara nổi dậy chống lại sadrs (các lãnh đạo tăng lữ), điều này được 'Ala' ad-Din Muhammad của nhà Khwarezm-Shah sử dụng làm cái cớ để đánh chiếm Bukhara. Muhammad sau đó lập liên minh với người cai trị của Đông Kara-Khanid là Uthman (về sau cưới con gái của Muhammad) để chống lại Tây Liêu. Năm 1210, nhà Khwarezm-Shah chiếm Samarkand sau khi quân Tây Liêu rút lui để đối phó với cuộc nổi loạn của Khuất Xuất Luật, người này đã chiếm được kho ngân khố của Tây Liêu tại Uzgen. Năm 1212, cư dân Samarkand tổ chức một cuộc nổi dậy chống lại Khwarezmia với sự trợ giúp từ Uthman. Quân Khwarezm-Shah trở lại, tái chiếm Samarkand và hành quyết Uthman. Ông yêu cầu tất cả các lãnh đạo Kara-Khanid chịu khuất phục, và cuối cùng tiêu diệt nhà nước Tây Kara-Khanid.

Năm 1211, Khuất Xuất Luật chiếm giữ ngai vàng Tây Liêu. Cùng năm đó, người lãnh đạo cuối cùng của nhà nước Đông Kara-Khanid bị giết chết trong một cuộc nổi dậy tại Kashgar, đặt dầu chấm hết cho Hãn quốc Kara-Khanid. Năm 1218, Khuất Xuất Luật bị quân Mông Cổ giết chết, và lãnh thổ Tây Liêu trở thành một phần của đế quốc Mông Cổ. Đế quốc Khwarezmia cũng sụp đổ sau đó.

Văn hóa

nhỏ|trái|Lăng mộ Kara-Khanid thế kỷ 11-12 tại [[Uzgen, Kyrgyzstan.]]

Việc Kara-Khanid tiếp quản khu vực đã không thay đổi đặc điểm Ba Tư căn bản tại Trung Á, song nó đã đem đến những biến đổi về nhân khẩu học và dân tộc ngôn ngữ học. Dười thời Kara-Khanid, cư dân địa phương ngày càng nói tiếng Đột Quyết (Turk) - ban đầu chỉ là về mặt ngôn ngữ khi dân bản địa chấp nhận tiếng Đột Quyết, sau đó những người Đột Quyết nghèo khó hơn cũng đến định cư. Trong nhiều thế kỷ Trung Á bị Đột Quyết (Turk) hóa, văn hóa của người Đột Quyết tiến gần đến chỗ bị Ba Tư hóa, và trong một phương diện nào đó là Ả Rập hóa.

Dīwānu l-Luġat al-Turk (Từ điển các ngôn ngữ Đột Quyết) được một sử gia nổi tiếng Kara-Khanid là Mahmud al-Kashgari viết, ông có thể đã sống một khoảng thời gian tại Kashgar trong triều đình Kara-Khanid. Ông đã viết cuốn từ điển toàn diện đầu tiên về các ngôn ngữ Đột Quyết bằng tiếng Ả Rập cho khalip của Baghdad từ 1072-76. Nhà văn nổi tiếng khác tại Kara-Khanid là Yusuf Balasaghuni, ông đã viết Kutadgu Bilig (Châm ngôn hạnh phúc), là tác phẩm văn chương duy nhất viết bằng chữ Đột Quyết còn được biết đến trong thời kỳ Kara-Khanid. Đặc tính Đột Quyết là điều hiển nhiên trong cả hai văn bản trên, song nó cũng cho thấy ảnh hưởng từ văn hóa Ba Tư và Hồi giáo.

Hồi giáo và nền văn minh của nó đã phát triển mạnh mẽ dưới thời Kara-Khanid. Một trong những ví dụ sớm nhất của madrasas (trường Hồi giáo) tại Trung Á đã được Ibrahim Tamghach Khan thành lập ở Samarkand. Ibrahim cũng cho thành lập một bệnh viện để chăm sóc cho bệnh nhân cũng như cung cấp nơi trú ẩn cho người nghèo. Con trai ông là Nasr Shams al-Mulk đã cho xây các ribat (pháo đài nhỏ) cho các chuyến caravan trên tuyến đường giữa Bukhara và Samarkand, và một nơi gần Bukhara. Một số công trình được các lãnh tụ Kara-Khanid cho xây dựng vẫn còn tồn tại cho đến nay - chẳng hạn như tháp Kalyan được Mohammad Aslan Khan cho xây bên cạnh nhaif Hồi giáo chính ở Bukhara, và ba lăng mộ tại Uzgend. Ngững người cai trị Kara-Khanid đầu tiên là những người vẫn quen với lối sống du mục, họ không sống trong thành mà ở một doanh tại bên ngoài kinh đô, đến thời Ibrahim, Kara-Khanid vẫn duy trì truyền thống du cư, các công trình tôn giáo và dân sự trải dài đã cho thấy nền văn hóa và truyền thống của những người định cư tại Transoxiana đã bị đồng hóa.

Di sản

Di sản của Kara-Khanid được cho là di sản văn hóa lâu dài nhất cùng tồn tại ở Trung Á từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13. Phương ngữ Cát La Lộc-Duy Ngô Nhĩ được các bộ lạc du mục và những cư dân định cư bị Đột Quyết hóa sử dụng dưới thời Kara-Khanid đã phân thành hai nhánh chính của nhóm ngôn ngữ Turk là tiếng Chagatai và Kypchak. Mô hình văn hóa của Kara-Khanid là sự kết hợp giữa văn hóa Đột Quyết du mục với Hồi giáo, lan sang phía đông đến Cao Xương Hồi Cốt và Tây Hạ và về phía tây và phía nam đến tiểu lục địa Ấn Độ, Khorasan (Turkmenistan, Afghanistan và Bắc Iran), lãnh thổ Kim Trướng hãn quốc. Sát Hợp Đài hãn quốc, các nhà nước và xã hội Timur và Uzbek đã kế thừa hầu hết nền văn hóa của Kara-Khanid và Khwarezm mà không bị gián đoạn đáng kể.

Lãnh đạo

Bilge Kul Qadir Khan (840–893) Bazir Arslan Khan (893–920) Oghulcak Khan (893–940) Satuk Bughra Khan 920–958, năm 932 chấp nhận Hồi giáo, năm 940 tiếp quản quyền lực từ người Cát La Lộc Musa Bughra Khan 956–958 Suleyman Arslan Khan 958–970 Ali Arslan Khan – Đại khả hãn 970–998 Lật đổ Samanid 999 Ahmad Arslan Qara Khan 998–1017 Mansur Arslan Khan 1017–1024 Muhammad Toghan Khan 1024–1026 Yusuf Qadir Khan 1026–32 Ali Tigin Bughra Khan – Đại khả hãn tại Samarkand, khoảng 1020–1034 Ebu Shuca Sulayman 1034–1042 *Kara-Khanid phân thành hai nhánh phía Đông và Tây

Tây Kara-Khanid

Muhammad Arslan Qara Khan khoảng 1042–khoảng 1052 Ibrâhîm Tamghach Bughra Khan khoảng 1052–1068 Nasr Shams al-Mulk 1068–1080 Khidr 1080–1081 Ahmad 1081–1089 Ya'qub Qadir Khan 1089–1095 Mas'ud 1095–1097 Sulayman Qadir Tamghach 1097 Mahmud Arslan Khan 1097–1099 Jibrail Arslan Khan 1099–1102 Muhammad Arslan Khan 1102–1129 Nasr 1129 Ahmad Qadir Khan 1129–1130 Hasan Jalal ad-Dunya 1130–1132 Ibrahim Rukn ad-Dunya 1132 Mahmud 1132–1141 Thất bại của triều Seljuk, Tây Liêu chiếm đóng, 1141 Ibrahim Tabghach Khan 1141–1156 Ali Chaghri Khan 1156–1161 Mas'ud Tabghach Khan 1161–1171 Muhammad Tabghach Khan 1171–1178 Ibrahim Arslan Khan 1178–1204 Uthman Ulugh Sultan 1204–1212 Khwarazm xâm chiếm, 1212

Đông Kara-Khanid

Ebu Shuca Sulayman 1042–1056 Muhammad bin Yusuph 1056–1057 İbrahim bin Muhammad Khan 1057–1059 Mahmud 1059–1075 Umar 1075 Ebu Ali el-Hasan 1075–1102 Ahmad Khan 1102–1128 İbrahim bin Ahmad 1128–1158 Muhammad bin İbrahim 1158–? Yusuph bin Muhammad ?–1205 Ebul Feth Muhammad 1205–1211 Tây Liêu xâm chiếm, 1211

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hãn quốc Kara-Khanid** hay **Khách Lạt Hãn quốc** là một liên minh của các bộ lạc Đột Quyết được một triều đại cai trị, triều đại này trong sử sách được gọi là **Karakhanid** (cũng
**Tây Liêu** () (1124 hoặc 1125-1218), hay còn gọi là **Hãn quốc Kara-Kitai** () hay **Tây Khiết Đan** quốc hiệu chính thức là **Đại Liêu** (), là một nhà nước của người Khiết Đan ở
**Trung Á** là một vùng của châu Á không tiếp giáp với đại dương. Có nhiều định nghĩa về Trung Á, nhưng không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi. Các tính chất
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Abu al-Muzaffar Rukn ud-Din Barkyaruq ibn Malikshah** (), được biết đến rộng rãi là **Barkyaruq**, là hoàng đế của Đại Seljuk từ năm 1094 đến 1105. Từ **Berk Yaruq** trong tiếng Đột Quyết có nghĩa
**Tashkent** (; ) hay **Toshkent** (; / , ) là thủ đô và thành phố lớn nhất của Uzbekistan. Đây cũng là thành phố đông dân nhất Trung Á, với dân số là 3 triệu.
**Vu Điền** (chữ Hán: 于闐王國) là một vương quốc Phật giáo ở Trung Á (Trung Quốc gọi là Tây Vực) nằm trên nhánh Con đường tơ lụa chạy dọc theo rìa phía nam của sa
**Samarkand** (, ; ; ; ) là thành phố lớn thứ hai của Uzbekistan và là thủ phủ của tỉnh Samarqand, cách thủ đô Tashkent khoảng 350 km. Đây là một thành phố du lịch nổi
**Gia Luật Đại Thạch** (耶律大石 Yēlǜ Dàshi) hay _Gia Luật Đạt Thực_ (耶律達實 Yēlǜ Dáshí) là người sáng lập nên vương triều Tây Liêu. Trong các tài liệu Hồi giáo, ông được biết đến với
Một tượng đồng của [[Bồ Tát Quán Thế Âm, Vương quốc Cổ Cách, khoảng năm 1050]] **Cổ Cách** (; ) là một vương quốc cổ ở phía tây của Tây Tạng. Lãnh thổ vương quốc
**Nhóm ngôn ngữ Karluk** (còn được gọi là **nhóm ngôn ngữ Qarluq** hoặc **Turk Đông Nam đại chúng**) là một nhánh của ngữ hệ Turk được phát triển từ các phương ngữ mà người Karluk