✨Quân đội của Thiếp Mộc Nhi

Quân đội của Thiếp Mộc Nhi

nhỏ|Quân đội của Thiết Mộc Nhĩ Quân đội của Thiếp Mộc Nhi là lực lượng quân đội của Đế quốc Timur được thành lập và tồn tại trong thời kỳ nắm quyền của Thiếp Mộc Nhi. Từ cuối thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 15, đây là lực lượng quân đội mạnh bậc nhất khu vực Trung Á. Đạo quân này tổ chức và chiến đấu dựa theo kinh nghiệm của quân đội đế quốc Mông Cổ trước đó, dưới sự lãnh đạo của Thiếp Mộc Nhi, đạo quân này đã giành nhiều chiến thắng quân sự lớn, từ đó tạo dựng nên đế quốc Timur. Nhưng về sau, quân đội Timur do các vị vua sau nắm quyền chỉ huy đã không thể sánh bằng quân đội của Thiếp Mộc Nhi trong thời kỳ tạo dựng đế quốc.

Cấu trúc

Quân đội của Thiếp Mộc Nhi được chia thành kỵ binh và bộ binh. Nền tảng của kỵ binh là cung thủ cưỡi ngựa người Turkic-Mông Cổ. Kỵ binh được vũ trang mạnh, đã cùng với vệ binh của Thiếp Mộc Nhi tạo nên tầng lớp tinh hoa quân sự. Vai trò của bộ binh gia tăng mạnh mẽ vào đầu thế kỷ 14-15. Đặc biệt, bộ binh không thể thiếu trong bao vây thành trì địch, mặc dù phần lớn họ chỉ đóng vai trò phụ trợ. Tuy vậy, trong quân đội Thiếp Mộc Nhi cũng có những đội quân bộ binh được vũ trang mạnh. Trong các thành trì cơ sở của các dân quân, được gọi là Sardabar, họ không đáng tin cậy, vì họ cũng là mối đe dọa bạo loạn và nổi loạn liên tục. Dân quân thành trì bảo vệ các tòa thành của họ trong các cuộc bao vây và cũng tham gia vào các chiến dịch của quân đội Thiếp Mộc Nhi chống lại nước láng giềng.

Trong các chiến dịch, Thiếp Mộc Nhi tích cực sử dụng voi chiến. Số lượng của mỗi đội lính trên tháp chiến nằm trên lưng voi là từ 4 đến 6 binh sĩ, chưa kể 2 người điều khiển.

Trong quân đội Thiếp Mộc Nhi có các đội xe pháo, kỹ sư, người bắn loại vũ khí với tên gọi "ngọn lửa Hy Lạp" và phu dịch cần thiết trong một cuộc bao vây. Thiếp Mộc Nhi cũng thành lập các đơn vị bộ binh đặc biệt chuyên chiến đấu trong điều kiện địa hình miền núi. Quy mô của quân đội dao động và không ổn định. Chính Thiếp Mộc Nhi từng tuyên bố rằng trong chiến dịch chống lại Hãn quốc Kim Trướng, ông đã tự xoay xở để tập hợp một đội quân khổng lồ. Theo một ghi chép năm 1391, số lượng binh sĩ được ghi nhận là 300.000 người. Theo một số học giả hiện đại, số lượng quân đội của Thiếp Mộc Nhi là phóng đại.

Thời kỳ Thiếp Mộc Nhi nắm quyền tại đế quốc Timur đã hình thành một hệ thống quyền lực đặc biệt nắm giữ đất đai, phần lớn tương tự như hệ thống Timar ở Đế quốc Ottoman. Thiếp Mộc Nhi đã trao quyền sở hữu đất đai có điều kiện cho các thủ lĩnh bộ lạc Jagatai, cùng với nông dân làm việc cho họ. Chủ sở hữu của nông dân là chủ sở hữu đất đai nhưng ban đầu họ không thể chuyển nhượng tài sản bằng quyền thừa kế. Để đổi lấy quyền sở hữu đất đai, các chủ sở hữu có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham chiến cùng với một số lượng binh sĩ nhất định. Các chiến binh thường xuyên được trả lương, cựu chiến binh được trả lương hưu.

Tổ chức

Tổ chức quân đội dựa trên hệ thống thập phân, theo cách tương tự như tổ chức thập phân của quân đội Thành Cát Tư Hãn. Quân đội được chia thành các đơn vị sau:

Hàng chục là unik. Chỉ huy được gọi là on-bashi. Hàng trăm là uslik. Chỉ huy được gọi là yuz-bashi. *Hàng ngàn (khazar, ming Tên Turkic của các đơn vị đã được thay thế một phần bởi những người Mông Cổ. Tổ chức của quân đội đã trải qua một số thay đổi so với quân đội của những lãnh đạo tiền nhiệm. Vì vậy, có những đơn vị 50-1000 người, được gọi là koshun, cũng như những đơn vị lớn hơn - kuls, số lượng cũng không ổn định. Quân Đồng minh cũng thiết lập các đơn vị phụ trợ gọi là hashar. Toàn bộ quân đội được chia thành nhiều quân đoàn (fauj).

Trong trận chiến trên sông Kondurche, quân đội Thiếp Mộc Nhi có 7 quân đoàn, 2 trong số đó là dự bị, sẵn sàng theo lệnh của tổng tư lệnh trợ chiến cho quân trung tâm hoặc bên cánh của đội hình. Quân đội tiên phong (uzb. Kirovul) gồm vài ngàn binh sĩ. Quân đội sườn bên trái (zuvonkor, javangar) và bên phải (barangar). Tin tình báo được cung cấp bởi lính canh. Ngoài ra còn có một loại "lực lượng đặc biệt" từ Yigit.

Mỗi đơn vị quy mô lớn có vũ khí riêng, yên ngựa, quivers, thắt lưng và các phù hiệu khác, chúng được sơn bằng một màu đặc biệt. Alisher Navoi liệt kê các màu vàng (sariғ), đen (қaro), trắng (қ), xanh lá cây (yashil), đỏ (қisil), màu tím (binafsha) của các biểu ngữ (alam) thuộc các đơn vị. Ba biểu ngữ hình thành một cánh quân. Dưới biểu ngữ, đạo quân của ba thành trì tập hợp.

Chỉ huy cao cấp hàng đầu được gọi là Sardars. Các thủ lĩnh được gọi là tiểu vương, gồm có 12 cấp bậc. Mỗi chỉ huy có một chỉ huy phó sẵn sàng thay thế người đó nếu cần thiết. Vị trí chức vụ của các tướng lĩnh, kỹ sĩ và hàng ngàn binh lính được bầu, nhưng họ cũng được các tướng lĩnh cao hơn chỉ định. Theo quy định, hàng ngàn người là con trai của các tiểu vương hoặc đại diện của giới quý tộc có thể được bổ nhiệm vào các chức vụ. Các chức vụ chỉ huy cao nhất trong quân đội thuộc về người thân và cộng sự thân cận nhất của Tamerlane. Quân đội duy trì kỷ luật sắt, quản lý dựa trên các hình phạt (đặc biệt, một trong những hình phạt kỷ luật là tước một phần mười tiền lương) và phần thưởng (khen ngợi, tăng lương, tặng quà, cấp bậc)

Vũ khí

Vũ khí của quân đội Thiếp Mộc Nhi phần lớn được chuẩn hóa. Vũ khí chính của kỵ binh hạng nhẹ giống như bộ binh, là một cây cung. Kỵ binh hạng nhẹ cũng sử dụng kiếm và rìu. Một chiếc áo khoác da cừu được sử dụng như cách bảo vệ đơn giản. Theo yêu cầu của Thiếp Mộc Nhi, bộ cắm trại kỵ binh hạng nhẹ có cưa, dùi, kim, dây thừng, rìu, 10 đầu mũi tên, túi, tursuk (túi da dùng để vận chuyển nước dự trữ). Kỵ binh được yêu cầu phải có hai con ngựa. Các kỵ binh được vũ trang mạnh mẽ, họ được mặc áo giáp (áo giáp phổ biến nhất là xích thư, thường được gia cố bằng các tấm kim loại, cũng như áo giáp gỗ và kuyak), đầu được bảo vệ bằng mũ giáp, và họ chiến đấu bằng gươm hoặc kiếm (ngoài cung và mũi tên). Bảo vệ chân và tay là giáp đơn giản, sau này loại giáp này phát triển trở thành áo giáp lamellar. Kỵ binh hạng nặng bảo vệ ngựa của họ bằng áo giáp. Vệ binh của Tamerlane chiến đấu với rìu, kiếm,..., ngựa của họ được phủ ngoài bằng da hổ. Binh sĩ đeo một thanh kiếm ở một bên và một thanh kiếm ngắn ở bên kia. Trong các chiến dịch, mỗi chiến binh phải có lượng mũi tên nhất định trong túi tên. Trong chiến dịch chống lại Hãn quốc Kim Trướng, mỗi binh lính được yêu cầu phải mang theo 30 mũi tên. Ngoài ra, Thiếp Mộc Nhi trước khi thân chinh đến Hãn quốc Kim Trướng, đã ra lệnh cho mỗi binh sĩ phải có giáo, chùy, khiên bọc da (alқon) và dao găm. Ông được cho là có 10 con ngựa, xe ngựa riêng, một thanh kiếm, một cây cung cùng nhiều mũi tên, một chùy,... và áo giáp.

Lính bộ binh thông thường được trang bị cung tên và kiếm, bộ binh hạng nặng dùng kiếm, rìu và chùy và được bảo vệ bởi áo giáp, mũ giáp và khiên. Trong cuộc bao vây các thành trì, nỏ cũng được sử dụng phổ biến.

Quần áo

Trang phục của các chiến binh Thiếp Mộc Nhi đã thay đổi từ Mông Cổ sang Hồi giáo. Họ đội mũ, turban, mặc áo khalat, kaftan, chân mang ủng.

Chiến lược và chiến thuật

Nhờ vào kỷ luật sắt và huấn luyện xuất sắc, đội quân Thiếp Mộc Nhi đã thực hiện một cách khéo léo và chính xác mệnh lệnh từ chỉ huy của họ. Nhờ vậy, ông ta đã đánh bại được đội quân của hãn Tokhtamysh, trước hết, tránh chiến thuật truyền thống của người Mông Cổ trên các vùng thảo nguyên là dẫn dụ và phục kích. Thiếp Mộc Nhi rất thành thạo hệ thống chính trị trên khắp khu vực Trung và Tây Á, nơi ông tiến hành các hoạt động quân sự và phải khéo léo sử dụng hoạt động của mật thám. Ông chú ý từng chi tiết để nghiên cứu chiến lược và chiến thuật của kẻ thù.

Trong các trận đánh, theo các nguyên tắc lý thuyết của ông, quân đội được chia thành 3 tuyến lớn, mỗi tuyến có 3 tuyến nhỏ. Do đó, các đội quân trên chiến trường có cấu trúc với độ sâu 9 tuyến binh lính, và có số lượng binh sĩ không đồng đều. Các lực lượng đáng kể đã được tổ chức để dự trữ nhằm củng cố trung tâm hoặc hai bên sườn vào đúng thời điểm. Những đội cung vũ trang hạng nhẹ tại các tiền đồn bắt đầu trận chiến, sau đó đội tiên phong tham chiến. Mỗi cánh quân chiến đấu có đội tiên phong của riêng họ, họ bước vào trận chiến trong trường hợp cần thiết để hỗ trợ đội tiên phong chính. Nếu các lực lượng này không đủ, thì nửa bên của hai cánh quân sẽ tham gia vào trận đánh, nếu sự hỗ trợ của họ cũng không đủ, thì Thiếp Mộc Nhi đưa các phần còn lại của cả hai cánh vào trận chiến. Nếu cần thiết, Thiếp Mộc Nhi vào giữa đội hình quân đội để chỉ huy.

Các tuyến được triển khai vào trận chiến dần dần, sau đó nếu quân địch tổn thất đáng kể thì các lực lượng dự bị chính, bao gồm các đội quân được chọn sẵn sẽ tham gia trận chiến. Điểm yếu nhất là tiền tuyến. Trong trận chiến, ban đầu Thiếp Mộc Nhi đưa quân từ giữa hai cánh quân hai bên và cả dự bị vào cứu hai bên cánh, kể cả khi đội hình trung tâm đã bị chọc thủng, để bảo toàn khả năng bao vây kẻ thù nhằm phá vỡ đội hình của họ. Chiến thuật như vậy đã giúp Thiếp Mộc Nhi liên tục thành công trong các cuộc chiến chống lại các đối thủ của ông.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Quân đội của Thiết Mộc Nhĩ **Quân đội của Thiếp Mộc Nhi** là lực lượng quân đội của Đế quốc Timur được thành lập và tồn tại trong thời kỳ nắm quyền của Thiếp Mộc
**Thiếp Mộc Nhi** ( _Timūr_, tiếng Sát Hợp Đài: **', , chữ Hán: 帖木兒; 8 tháng 4 năm 1336— 18 tháng 2 năm 1405), còn được biết đến trong sử sách với tên gọi **Tamerlane_'
nhỏ|phải|Giáp trụ của chiến binh Mông Cổ thumb|Cung thủ kỵ binh Mông Cổ. Ảnh trong tác phẩm [[Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani.]] **Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông
**Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi** () hay **Khố Khố Đặc Mục Nhĩ** (庫庫特穆爾, [http://en.wikipedia.org/wiki/Mongolian_script chữ Mông Cổ kinh điển]: ᠬᠥᠬᠡᠲᠡᠮᠦᠷ, phiên âm La Tinh: Köketemür, [http://en.wikipedia.org/wiki/Mongolian_Cyrillic_alphabet chữ Kirin Mông Cổ]: Хөхтөмөр) không rõ năm sinh,
**Yên Thiếp Mộc Nhi** ( (_Yàn tiē mù er_), tiếng Mông Cổ:(; _El Temür_) (?-1333) là một nhà chính trị và là thừa tướng thời nhà Nguyên, vốn là một phần của đế quốc Mông
**Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi** () hay **Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ** (察罕特穆爾, chữ Mông Cổ: ᠴᠠᠭᠠᠨ ᠲᠡᠮᠦᠷ, chuyển tự La Tinh: Čaγan Temür hay Chaqan-temür, ? – 6/7/1362), tên tự Đình Thụy, sinh quán
**Hãn quốc Y Nhi**, (, _Hülegü-yn Ulus_, , _Ilxānān_, chữ Hán: 伊兒汗國), còn dịch là **hãn quốc Y Lợi** (伊利汗国) hoặc **hãn quốc Y Nhĩ** (伊尔汗国), là một hãn quốc của người Mông Cổ thành
**Sự can thiệp quân sự của nước ngoài vào Nga** () bao gồm một loạt các cuộc viễn chinh quân sự đa quốc gia bắt đầu từ năm 1918. Động lực ban đầu đằng sau
Một đoạn [[Vạn Lý Trường Thành gần pháo đài ở Gia Dục quan]] **Gia Dục quan** () là một cửa ải ở cực tây của Vạn Lý Trường Thành, gần trung tâm đô thị của
**Binh chủng Hải quân Đánh bộ** là một binh chủng thuộc Quân chủng Hải quân Việt Nam có nhiệm vụ đóng quân bảo vệ các đảo, đá hoặc tấn công, đổ bộ bằng đường biển
**Quân Khăn Đỏ** () là các lực lượng khởi nghĩa nông dân cuối đời Nguyên, ban đầu là do các tông giáo dân gian như Minh giáo, Di Lặc giáo, Bạch Liên giáo kết hợp
**Bá Nhan (Miệt Nhi Khất bộ)** (?-1340) hay gọi tắt là **Bá Nhan** () là một tướng lĩnh người Mông Cổ thuộc bộ tộc Miệt Nhi Khất và là một thừa tướng thời nhà Nguyên
**Cáp Nhĩ Tân** là một địa cấp thị và thủ phủ của tỉnh Hắc Long Giang ở phía Đông Bắc Trung Quốc. Cáp Nhĩ Tân là thành phố đông dân thứ 8 của Trung Quốc
**Đế chế thứ hai** hay **Đệ Nhị đế chế** là vương triều Bonaparte được cai trị bởi Napoléon III từ 1852 đến 1870 tại Pháp. Đế quốc này được bắt đầu sau Đệ Nhị Cộng
**Xung đột giành quyền kiểm soát tại Quần đảo Trường Sa 1988**, hay còn gọi là **Hải chiến Trường Sa** hoặc **Xung đột Trường Sa** là sự kiện xung đột tại khu vực quần đảo
**Quan hệ Hoa Kỳ – Hy Lạp**, là mối quan hệ được xây dựng dựa trên tình hữu nghị giữa hai nước là Hoa Kỳ và Hy Lạp. Do các mối quan hệ lịch sử,
**Kheshig** (Khishig, Keshikchi, Keshichan) (_khiếp bệ_, trong tiếng Mông Cổ nghĩa là _được ban phước_) là lực lượng cận vệ của hoàng gia Mông Cổ, đặc biệt là với Thành Cát Tư Hãn và vợ
**Đa Nhĩ Cổn** (Phồn thể: 多爾袞; giản thể: 多尔衮; ; 17 tháng 11 năm 1610– 31 tháng 12 năm 1650), Ái Tân Giác La, còn gọi **Duệ Trung Thân vương** (睿忠親王), là một chính trị
**Nữ quan** (chữ Hán: 女官), hay còn gọi **Nội quan** (内官), **Cung quan** (宮官) hoặc **Sĩ nữ** (仕女), là những từ hay dùng để gọi các cung nữ cao cấp có phẩm trật cùng địa
**Bắc Nguyên** (, tiếng Mông Cổ: , _Umardu Yuwan Ulus_) là vương triều do Bột Nhi Chỉ Cân của người Mông Cổ cai trị vùng Đại Mông Cổ. Nhà Bắc Nguyên khởi đầu bằng việc
**Nỗ Nhĩ Cáp Xích** (chữ Hán: 努爾哈赤, bính âm: _Nǔ'ěrhāchì_; chữ Mãn: , âm Mãn: _Nurhaci_), (1559 – 1626), Hãn hiệu** Thiên Mệnh Hãn** (天命汗), là một thủ lĩnh của bộ tộc Nữ Chân vào
**Mãng Cổ Nhĩ Thái** (, , 1587 – 11 tháng 1 năm 1633), là hoàng tử và một trong Tứ đại Bối lặc thời kỳ đầu nhà Thanh. ## Cuộc đời Mãng Cổ Nhĩ Thái
**Sự biến Thổ Mộc bảo**, còn được gọi là **Sự biến Thổ Mộc** hay **Sự biến năm Kỷ Tỵ**, là một cuộc chiến trong lịch sử Trung Quốc xảy ra vào ngày 1 tháng 9
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
** Đoan Mộc Tứ ** (; 520–459 TCN),, người Hoa Hạ, họ Đoan Mộc, sống vào thời kỳ cuối Xuân Thu , người nước Vệ (huyện Tuấn, Hạc Bích, tỉnh Hà Nam), tự ** Tử
**Thượng Quan Uyển Nhi** (Phồn thể: 上官婉兒; giản thể: 上官婉儿; 664 - 21 tháng 7, 710), còn gọi là **Thượng Quan Chiêu dung** (上官昭容), là một trong những nữ chính trị gia nổi tiếng của
Trước hết, tôi rất biết ơn vì đã gặp nhau với các bà mẹ kho báu, và Alice chào đón bạn nồng nhiệt. Tôi sẽ giới thiệu bản thân mình cho mọi người. Alice Làm
Đây là danh sách tất cả các huyện (trong đó có cả các huyện tự trị, các kỳ và các kỳ tự trị) cùng với các thành phố cấp huyện () và các quận ()
**Hoạn quan** (chữ Nho: 宦官) hay **quan hoạn** là người đàn ông do khiếm khuyết ở bộ phận sinh dục nên không thể có gia đình riêng, được đưa vào cung vua chúa để hầu
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
**Quan hệ Nga–Ukraina** chuyển thành quan hệ liên quốc gia sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Quan hệ ngoại giao giữa Liên bang Nga và Ukraina độc lập được thiết lập vào
**Uzbekistan** (phiên âm tiếng Việt: _"U-dơ-bê-ki-xtan"_), tên chính thức **Cộng hòa Uzbekistan** (tiếng Uzbek: _O‘zbekiston Respublikasi_), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**Ngạc Bố Nhĩ** (chữ Hán: 鄂布尔, , ? - 1683) hay **Ngạc Tề Nhĩ** (鄂齐尔), Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị, người Mông Cổ Ba Lâm bộ, Ba Lâm hữu kỳ Trát Tát Khắc Đa
**_Bản danh sách của Schindler_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Schindler's List_**) là một bộ phim điện ảnh chính kịch cổ trang sử thi của Hoa Kỳ sản xuất và phát hành năm 1993 do Steven
**_Femme Fatale_** là album phòng thu thứ bảy của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 25 tháng 3 năm 2011 bởi Jive Records. Đây là album cuối cùng của cô hợp tác
**Đậu Kiến Đức** (, 573 – 3/8/621) là một thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân chống lại sự cai trị của Tùy Dạng Đế. Ông thường được nhận định là thủ lĩnh khởi nghĩa nông
**_Lâu đài bay của pháp sư Howl_** (tiếng Nhật: ハウルの動く城, Hepburn: _Hauru no Ugoku Shiro_, tiếng Anh: **_Howl's Moving Castle_**), hay **_Lâu đài di động của Howl_**, là một bộ phim điện ảnh hoạt hình
**Những cuộc phiêu lưu của Mít Đặc và các bạn** (tiếng Nga: _Приключения Незнайки и его друзей_) là một tập truyện giả tưởng dành cho thiếu nhi của nhà văn Nikolay Nosov, ra đời năm
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
**Lưu Phúc Thông** (, 1320-1367), người Tây Lưu Doanh, Dĩnh châu, phủ Nhữ Ninh, thủ lĩnh trên thực tế của phong trào khởi nghĩa Khăn Đỏ ở miền bắc Trung Quốc vào cuối đời Nguyên.
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Hãn quốc Sát Hợp Đài** hay **Sát Hợp Đài hãn quốc** (tiếng Mông Cổ: Tsagadai Khan Uls/Цагадайн улс) là một hãn quốc Turk-Mông Cổ bao gồm các phần lãnh thổ do Sát Hợp Đài cùng
**Chiến tranh hai đô** (tiếng Trung giản thể: 两都之战; tiếng Trung phồn thể: 兩都之戰, hay 天历之变, **biến cố Thiên Lý**) là một cuộc nội chiến xảy ra vào năm 1328 dưới thời nhà Nguyên trong
**Đa Đạc** (; ; 2 tháng 4 năm 1614 – 29 tháng 4 năm 1649) là một trong 12 Thiết mạo tử vương và một tướng lĩnh trong thời kỳ đầu nhà Thanh. Ông có
**Ngu Doãn Văn** (chữ Hán: 虞允文; ngày 14 tháng 12, 1110 – ngày 18 tháng 7, 1174), tự Bân Phủ (彬父), người Nhân Thọ, Long Châu , nhà văn hóa, nhà chính trị, tể tướng,
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông