✨Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi

Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi

Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi () hay Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ (察罕特穆爾, chữ Mông Cổ: ᠴᠠᠭᠠᠨ ᠲᠡᠮᠦᠷ, chuyển tự La Tinh: Čaγan Temür hay Chaqan-temür, ? – 6/7/1362), tên tự Đình Thụy, sinh quán Trầm Khâu, Dĩnh Châu , nguyên quán Bắc Đình, dân tộc Uyghur, tướng lĩnh cuối đời nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc.

Thân thế

Ông cụ là Khoát Khoát Đài, ông nội là Nãi Man Đài, cha là Lương vương A Lỗ Ôn. Tổ tiên của Sát Hãn theo đại quân Mông Cổ tiến vào Trung Nguyên, đời sau định cư Trầm Khâu. Ông từ nhỏ đã ra sức học tập, từng thi đỗ Cử nhân, nức tiếng ở quê nhà, tự đặt tên Hán là Lý Sát Hãn.

Sự nghiệp

Tổ chức "nghĩa binh"

Tháng 5 năm Chí Chánh thứ 11 (1351), khởi nghĩa Khăn Đỏ nổ ra, quan quân nhà Nguyên liên tiếp thất bại. Năm sau (1352), Sát Hãn là người đầu tiên đứng ra tổ chức địa chủ vũ trang, tập hợp mấy trăm người địa phương, gọi là "nghĩa binh". Ông kết hợp với "nghĩa binh" của La Sơn điển lại Lý Tư Tề, vạch mưu giành lại được huyện La Sơn đã rơi vào tay quân Khăn Đỏ. Triều đình thụ Sát Hãn làm Trung Thuận đại phu, Nhữ Ninh phủ Đạt Lỗ Hoa Xích, Tư Tề làm Nhữ Ninh tri phủ. Lực lượng của Sát Hãn phát triển lên đến vạn người, đóng ở Trầm Khâu, liên tiếp đánh bại nghĩa quân Khăn Đỏ của Lưu Phúc Thông.

Tháng 2 năm thứ 15 (1355), bọn Lưu Phúc Thông đưa Hàn Lâm Nhi lên ngôi, khí thế nhất thời lên cao, Sát Hãn đóng giữ Hổ Lao nhằm khống chế nghĩa quân. Tháng 11, Lưu Phúc Thông đưa quân vượt bến đò Mạnh Tân lên phía bắc, phá Hoài Khánh . Sát Hãn soái quân tiến đánh, nghĩa quân thua chạy. Nhờ công, thăng chức Trung thư Hình bộ thị lang, ban giai Trung nghị đại phu. Khi ấy quân Miêu đóng tại Huỳnh Dương làm phản, Sát Hãn nhân đêm tối tập kích, bắt hết bọn họ, rồi kết trại ở Trung Mưu. 30 vạn quân Khăn Đỏ đến đánh Trung Mưu, Sát Hãn soái quân ra sức chống trả, nghĩa quân bỏ cờ trống mà chạy, ông đuổi theo hơn 10 dặm, giết chết nghĩa quân vô số.

Đưa quân tây tiến

Năm thứ 16 (1356), thăng chức Trung thư Binh bộ thượng thư, ban giai Gia nghị đại phu. Tháng 9, Lưu Phúc Thông sai bọn Lý Vũ, Thôi Đức phá Đồng Quan, tiến chiếm Thiểm Châu , Quắc Châu , chẹn ngang Hào, Hàm. Hà Nam hành tỉnh Bình chương chánh sự Đáp Thất Bát Đô Lỗ mệnh cho bọn Sát Hãn, Tư Tề đi dẹp. Sát Hãn tiến quân về phía tây, nhân đêm tối chiếm Hào Lăng . Ông tiếp tục tấn công Thiểm Châu, thành kiên cố không hạ được; chuyển sang đánh thành Linh Bảo (thuộc Quắc Châu), hạ được. Lý Vũ, Thôi Đức vượt Hoàng Hà chạy vào Sơn Tây, chiếm Bình Lục, cướp bóc An Ấp, Sát Hãn đuổi nà không tha. Lý Vũ, Thôi Đức lui quân xuống Dương Tân, cùng quân Nguyên chống chọi vài tháng, cuối cùng không địch nổi phải bỏ chạy. Ông nhờ công được gia Trung phụng đại phu, thêm Hà Bắc hành xu mật viện sự.

Năm thứ 17 (1357), Lý Vũ, Thôi Đức công phá nhiều nơi thuộc Thiểm Tây, triều đình nhà Nguyên phái bọn Sát Hãn, Tư Tề, Lưu Cáp Lạt Bất Hoa từ Thiểm Châu, Đồng Quan cứu viện. Bọn họ đánh cho nghĩa quân Khăn Đỏ tan tác, Sát Hãn được gia chức Tư thiện đại phu, Thiểm Tây hành tỉnh tả thừa. Lưu Phúc Thông phái thêm nghĩa quân lên phía bắc Tứ Xuyên, nhắm đến Phượng Tường. Ông tiến vào Phượng Tường, dụ nghĩa quân đến vây thành. Nghĩa quân phát trọng binh đến đánh, Sát Hãn tự soái thiết kỵ, mai phục cách thành 200 dặm. Quân Nguyên trong ngoài hợp kích, nghĩa quân tan rã, người chết đến vài vạn, thây phơi hàng trăm dặm.

Cứu viện Kinh sư

Tháng 2 năm thứ 18 (1358), thủ lĩnh quân Khăn Đỏ ở Sơn Đông là Mao Quý tiến hành bắc phạt, bức đến kinh sư. Triều đình nhà Nguyên vội triệu binh mã 4 phương cứu viện, mệnh cho Sát Hãn đóng quân ở Trác Châu. Sát Hãn chia quân đồn thú ở Thanh Tưu , Nghĩa Cốc , đóng quân Đồng Quan, chắn Nam Sơn khẩu, đề phòng nghĩa quân Thiểm Tây lại nổi dậy. Ông tự mình soái tinh kỵ gấp đến Hà Bắc. Khi ấy một cánh nghĩa quân vượt núi Thái Hành, đánh phá nhiều nơi thuộc Sơn Tây, tiến xuống phía nam. Sát Hãn phái bọn Quan Bảo, Hổ Lâm Xích giữ Thượng Đảng, Hổ Lâm Xích đẩy lui tất cả các cuộc tấn công của nghĩa quân nhắm vào Liêu Châu . Nhằm ngăn trở nghĩa quân tiến xuống phía nam, ông phái quân mai phục ở cửa ải Nam Sơn thuộc núi Thái Hành, tự nắm đại quân đóng tại Văn Hỷ, Giáng Dương. Nghĩa quân quả nhiên đi qua Nam Sơn, gặp phục kích, tổn thất nặng nề.

Sát Hãn chia quân đóng ở Trạch Châu , chặn thành Lưu Tử ; đóng ở Thượng Đảng, chặn hang Ngô Nhân ; đóng ở Ký Ninh, chặn cửa Tỉnh Hình , nhằm lấp kín con đường đi qua núi Thái Hành. Việc nay khiến cho nghĩa quân Khăn Đỏ ở Sơn Tây hết cách hoạt động, chuyển sang tấn công Hà Bắc. Ông tiến chức làm Thiểm Tây hành tỉnh hữu thừa kiêm Thiểm Tây hành đài thị ngự sử, Đồng tri Hà Nam hành xu mật viện sự. Huệ tông hạ chiếu lệnh cho ông được thay quyền nhà vua ở Quan Thiểm, Tấn, Ký, coi sóc Hán, Miện, Kinh, Tương, tùy nghi làm việc bên ngoài.

Đánh chiếm Biện Lương

Tháng 5 năm thứ 19 (1359), Sát Hãn nhắm vào kinh đô Biện Lương của chính quyền Tống do nghĩa quân Khăn Đỏ lập nên, tự soái đại quân đến Hổ Lao, sai quân theo đường phía nam ra Biện Nam, lấy các châu Quy, Bạc, Trần, Thái; theo đường phía bắc ra Biện Đông, lên chiến thuyền men Hoàng Hà, thủy lục cùng tiến, dẹp Tào Châu về phía nam, giữ bến Hoàng Lăng . Lại còn điều quân Thiểm Tây, ra cửa Hàm, vượt Hổ Lao; quân Sơn Tây ra Thái Hành, xuôi Hoàng Hà, hội sư dưới thành Biện Lương, chiếm lấy thành ngoài của nghĩa quân.

Ông tự đóng quân ở doanh Hạnh Hoa (phía tây thành). Thủ lĩnh nghĩa quân Lưu Phúc Thông nhiều lần ra đánh đều thất bại. Tháng 8, thành vỡ, Phúc Thông đưa Tống đế Hàn Lâm Nhi và mấy trăm kỵ binh bỏ trốn. Quân Nguyên bắt được Hoàng hậu, hơn 5000 quan viên và mấy vạn gia thuộc của nghĩa quân. Sát Hãn nhờ công được bái làm Hà Nam hành tỉnh bình chương chánh sự, kiêm Tri Hà Nam hành xu mật viện sự, Thiểm Tây hành đài ngự sử trung thừa. Vì thế, ông chia quân trấn giữ Quan Thiểm, Kinh Tương, Hà Lạc, Giang Hoài, rồi đặt đại quân ở Thái Hành, cờ quạt kéo dài mấy ngàn dặm. Sát Hãn hằng ngày sửa chữa xe, thuyền, đúc khí giới, làm ruộng chứa lúa, huấn luyện sĩ tốt, muốn giành lại Sơn Đông.

Tranh giành quyền lực

Vì Sát Hãn tỏ ra bất mãn Bột La Thiếp Mộc Nhi, thuộc gia tộc San Trúc Đái, trẻ tuổi hơn, ít chiến công hơn mà địa vị lại ở trên, nên triều đình mệnh cho Bột La giữ vùng đất từ cửa ải Thạch Lĩnh về phía bắc, ông giữ từ cửa ải Thạch Lĩnh về phía nam, tránh cho 2 người xảy ra xung đột.

Tháng 9 năm thứ 20 (1360), Bột La phái quân tấn công Ký Ninh dưới quyền Sát Hãn, rồi lui về Giao Thành. Tháng 10, triều đình mệnh cho Bột La giữ Ký Ninh, tướng giữ Ký Ninh của Sát Hãn không chịu nộp thành. Sát Hãn phái thêm quân đến giữ, bị bộ tướng của Bột La là Thoát Liệt Bá đánh bại. Tháng giêng năm thứ 21 (1361), triều đình phái Bình chương Đáp Thất Thiếp Mộc Nhi, Tham chánh Thất Thập đến khuyên dụ, Bột La mới lui quân về đất cũ.

Đưa quân đông tiến

Tháng 6 năm thứ 21 (1361), Sát Hãn ở Lạc Dương triệu tập các lộ tướng lĩnh, bàn bạc việc ra quân tấn công Sơn Đông như sau: quân Tịnh Châu ra Tỉnh Hình; quân Liêu, Thấm ra Hàm Đan; quân Trạch, Lộ ra Từ Châu; quân Hoài, Vệ ra Bạch Mã, cùng quân Biện, Lạc chia đường thủy lục cùng tiến. Rồi tự soái thiết kị tinh nhuệ, dựng cờ trống đại tướng, vượt Mạnh Tân, qua Hoài Khánh, nổi trống đông tiến.

Tháng 7, chiếm Đông Xương , Quan Châu . Tháng 8, Sát Hãn đến Diêm Hà, sai con là Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi cùng bọn Diêm Tử Hiếu, hội họp với bọn Quan Bảo, Hổ Lâm Xích soái 5 vạn tinh binh tấn công Đông Bình. Quân Nguyên từ bờ đông làm cầu nổi sang sông, "Hoa mã vương" Điền Phong phái 2 vạn quân cướp cầu, Quan Bảo, Hổ Lâm Xích vừa đánh vừa sang sông, chiếm Trường Thanh, đóng quân dưới thành Đông Bình. Điền Phong sai bộ hạ là bọn Thôi Thế Anh ra đánh, không thắng.

Sát Hãn cho rằng Điền Phong ở Sơn Đông đã lâu, quân dân phục tùng ông ta, bèn gởi thư đem lẽ "nghịch thuận" ra dụ, Phong nhận lời đầu hàng, nhưng khéo léo từ chối gặp gỡ. Sát Hãn cả mừng, mệnh cho hắn ta làm Tiền phong, theo quân đông tiến. Sau đó "Tảo địa vương" Vương Sĩ Thành ở Đông Bình, Du Định ở Lệ Châu , Dương Thành ở Đông Xương đều hàng. Ông bèn thụ chức cho Phong làm Sơn Đông hành tỉnh bình chương.

Đánh hạ Tế Nam

Bấy giờ, nghĩa quân Khăn Đỏ hội sư ở Tế Nam, Sát Hãn chia quân 3 đường: Bắc lộ đánh Tế Dương, Chương Khâu, Trung lộ do Sát Hãn tự soái chủ lực đánh Tế Nam, Nam lộ đánh Thái An, Ích Dương. Quân Trung lộ vượt Thanh Hà, đánh bại nghĩa quân ở Phân Tề, áp sát thành Tế Nam.

Khi ấy quân Bắc lộ giành được Tế Hà, Vũ Thành, quân Nam lộ cũng báo tiệp. Nghĩa quân ở Ích Đô đến cứu Tế Nam, bị Sát Hãn đánh bại ở Thạch Kiều. Ông thừa thắng vây đánh Tế Nam, chia quân chiếm lấy các châu quận đang nằm trong tay quân Khăn Đỏ. 3 tháng sau, chiếm được Tế Nam, triều đình bái Sát Hãn làm Trung thư bình chương chánh sự, Tri Hà Nam, Sơn Đông hành xu mật viện sự, Thiểm Tây hành đài trung thừa như cũ.

Vây chặt Ích Đô

Sát Hãn từ Tế Nam tiến quân vây đánh Ích Đô, hòng quét sạch sào huyệt cuối cùng của nghĩa quân Khăn Đỏ ở Sơn Đông, gặp Điền Phong ở phía tây thành. Ông lệnh cho quân Nguyên đặt doanh trại ở vài mươi chỗ, sửa chữa công cụ, trăm đường cùng tiến. Nghĩa quân ra sức cố thủ, quân Nguyên đào hào sâu, xây lũy dài, dẫn nước sông Nam Dương rót vào thành.

Thành bị vây được vài tháng, Sát Hãn rất hay đến trại của Điền Phong ở cửa nam để bàn bạc. Ngày 15 tháng 6 năm thứ 22 (tức ngày 6 tháng 7 năm 1362 dương lịch), ông chỉ đưa 2 tùy tùng đến trại của Điền Phong, bị bọn Điền Phong, Vương Sĩ Thành bắt giữ, chạy vào trong thành, rồi bị hại.

Tin tức truyền về, trong triều ngoài cõi chấn động. Triều đình ban chiếu tặng Thôi Thành Định Viễn Tuyên Trung Lượng Tiết công thần, Khai phủ nghi đồng tam tư, Thượng trụ quốc, Hà Nam hành tỉnh tả thừa tướng, truy phong Trung Tương vương, thụy là Hiến Vũ. Sau đó đổi tặng Tuyên Trung Hưng Vận Hoằng Nhân Hiệu Tiết công thần, truy phong Toánh Xuyên vương, đổi thụy Trung Tương, thực ấp là huyện Trầm Khâu. Mệnh cho con trai Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi tổng lĩnh quân đội của cha.

Đánh giá

"Quốc triều điển cố" chép: Chu Nguyên Chương nghe tin Sát Hãn bị hại, chỉ nói: "Thiên hạ hết người rồi!".

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi** () hay **Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ** (察罕特穆爾, chữ Mông Cổ: ᠴᠠᠭᠠᠨ ᠲᠡᠮᠦᠷ, chuyển tự La Tinh: Čaγan Temür hay Chaqan-temür, ? – 6/7/1362), tên tự Đình Thụy, sinh quán
**Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi** () hay **Khố Khố Đặc Mục Nhĩ** (庫庫特穆爾, [http://en.wikipedia.org/wiki/Mongolian_script chữ Mông Cổ kinh điển]: ᠬᠥᠬᠡᠲᠡᠮᠦᠷ, phiên âm La Tinh: Köketemür, [http://en.wikipedia.org/wiki/Mongolian_Cyrillic_alphabet chữ Kirin Mông Cổ]: Хөхтөмөр) không rõ năm sinh,
**Hãn quốc Y Nhi**, (, _Hülegü-yn Ulus_, , _Ilxānān_, chữ Hán: 伊兒汗國), còn dịch là **hãn quốc Y Lợi** (伊利汗国) hoặc **hãn quốc Y Nhĩ** (伊尔汗国), là một hãn quốc của người Mông Cổ thành
**Thiếp Mộc Nhi** ( _Timūr_, tiếng Sát Hợp Đài: **', , chữ Hán: 帖木兒; 8 tháng 4 năm 1336— 18 tháng 2 năm 1405), còn được biết đến trong sử sách với tên gọi **Tamerlane_'
nhỏ|Quân đội của Thiết Mộc Nhĩ **Quân đội của Thiếp Mộc Nhi** là lực lượng quân đội của Đế quốc Timur được thành lập và tồn tại trong thời kỳ nắm quyền của Thiếp Mộc
**Yên Thiếp Mộc Nhi** ( (_Yàn tiē mù er_), tiếng Mông Cổ:(; _El Temür_) (?-1333) là một nhà chính trị và là thừa tướng thời nhà Nguyên, vốn là một phần của đế quốc Mông
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Hãn quốc Sát Hợp Đài** hay **Sát Hợp Đài hãn quốc** (tiếng Mông Cổ: Tsagadai Khan Uls/Цагадайн улс) là một hãn quốc Turk-Mông Cổ bao gồm các phần lãnh thổ do Sát Hợp Đài cùng
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
Dưới đây là danh sách các hãn của Hãn Quốc Sát Hợp Đài từ khi Sát Hợp Đài được thừa hưởng các vùng đất cai trị cho đến khi bị người Chuẩn Cát Nhĩ và
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Nguyên sử** (tiếng Trung: 元史, bính âm: Yuán Shǐ) là một tác phẩm do Tống Liêm (1310-1381) và một số quan lại khác phụng mệnh Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương biên soạn năm 1370.
**Quân Khăn Đỏ** () là các lực lượng khởi nghĩa nông dân cuối đời Nguyên, ban đầu là do các tông giáo dân gian như Minh giáo, Di Lặc giáo, Bạch Liên giáo kết hợp
**Lưu Phúc Thông** (, 1320-1367), người Tây Lưu Doanh, Dĩnh châu, phủ Nhữ Ninh, thủ lĩnh trên thực tế của phong trào khởi nghĩa Khăn Đỏ ở miền bắc Trung Quốc vào cuối đời Nguyên.
**Sát Hợp Đài** (;  – 1242) là một hoàng tử của Đế quốc Mông Cổ, con trai thứ của Thành Cát Tư Hãn và chính thất Bột Nhi Thiếp. Ông nổi tiếng vì thông thạo
**Bá Nhan (Miệt Nhi Khất bộ)** (?-1340) hay gọi tắt là **Bá Nhan** () là một tướng lĩnh người Mông Cổ thuộc bộ tộc Miệt Nhi Khất và là một thừa tướng thời nhà Nguyên
**Nỗ Nhĩ Cáp Xích** (chữ Hán: 努爾哈赤, bính âm: _Nǔ'ěrhāchì_; chữ Mãn: , âm Mãn: _Nurhaci_), (1559 – 1626), Hãn hiệu** Thiên Mệnh Hãn** (天命汗), là một thủ lĩnh của bộ tộc Nữ Chân vào
**Cáp Nhĩ Tân** là một địa cấp thị và thủ phủ của tỉnh Hắc Long Giang ở phía Đông Bắc Trung Quốc. Cáp Nhĩ Tân là thành phố đông dân thứ 8 của Trung Quốc
**Bát Bất Hãn** (tiếng Hoa: 八不罕; tiếng Mông Cổ: Бабухан; ? - ?) là chính thất Hoàng hậu của Nguyên Thái Định Đế hay Nguyên Tấn Tông Dã Tôn Thiết Mộc Nhi, Hoàng đế thứ
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
**Trung Tương Vương** (_chữ Hán_:忠襄王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quốc vương, phiên vương, quận vương hoặc thân vương trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ##
**Hiến Vũ Vương** (_chữ Hán_:献武王) là thụy hiệu của một số vị quốc vương, phiên vương, quận vương hoặc thân vương trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Bắc
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Nguyên Minh Tông** hay **Hốt Đô Đốc hãn** (chữ Hán: 忽都篤汗, ; 22 tháng 12, 1300 - 30 tháng 8 1329), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Hòa Thế Lạt** (孛兒只斤和世㻋, Borjigin Küsele, ),
**Nguyên Thái Định Đế** (28 tháng 11, 1293 - 15 tháng 8 1328), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Dã Tôn Thiết Mộc Nhi** (;phiên âm: Borjigin Yesun Temur), là vị Hoàng đế thứ
**Đa Nhĩ Cổn** (Phồn thể: 多爾袞; giản thể: 多尔衮; ; 17 tháng 11 năm 1610– 31 tháng 12 năm 1650), Ái Tân Giác La, còn gọi **Duệ Trung Thân vương** (睿忠親王), là một chính trị
**Nguyên Ninh Tông** (), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Ý Lân Chất Ban** (; ; tiếng Tây Tạng cổ: རིན་ཆེན་དཔལ་, _rin chen dpal_) (1326-1332), là vị hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyên,
**Nguyên Chiêu Tông** (tiếng Hán: 元昭宗; 1340 – 1378; tiếng Mông Cổ: _Biligtü Khan_), tên thật **Ái Du Thức Lý Đạt Lạp** (愛猷識理答臘; _Ayusiridara_), là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Nguyên
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Nguyên Thiên Thuận Đế** (tiếng Hoa: 元天顺帝; 1320-1328) tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân A Tốc Cát Bát** (孛兒只斤阿剌吉八; Borjigit Arigabag), Hoàng đế thứ 7 của nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc và
**Liên minh Bốn Oirat** (_Dorben Oirad_), còn được gọi là **Liên minh của bốn bộ lạc Oirat** hoặc **Liên minh Ngõa Lạt** (tiếng Ngõa Lạt; tiếng Mông Cổ: Дөрвөн Ойрад; trong quá khứ, cũng gọi
**Tống Cung Đế** (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là **Doanh Quốc công**, **Tống Đế Hiển** (宋帝㬎), tên thật là **Triệu Hiển** (趙㬎), là vị
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
**Trát Mộc Hợp** (tiếng Mông Cổ: Жамуха, tiếng Trung: 札木合) hay **Tráp Mộc Hợp** (劄木合), còn được gọi là **Trác Mộc Hợp** (? - 1204) là thủ lĩnh bộ lạc Trát Đạt Lan ở Mông
**Hãn quốc Krym**, tự gọi là **Ngôi vương Krym và Desht-i Kipchak**, và trong thuật chép sử và địa lý châu Âu gọi là **Tiểu Tartary**, là một nhà nước Tatar Krym tồn tại từ
** Đoan Mộc Tứ ** (; 520–459 TCN),, người Hoa Hạ, họ Đoan Mộc, sống vào thời kỳ cuối Xuân Thu , người nước Vệ (huyện Tuấn, Hạc Bích, tỉnh Hà Nam), tự ** Tử
thumb|330x330px|_Đáp Nhi Ma Thất Lý là Hãn Älâ'ud-Dīn_ của [[Hãn quốc Sát Hợp Đài.]] **Đáp Nhi Ma Thất Lý**(**Tarmashirin**,Sanh mất ?-1334) là Hãn của Hãn quốc Sát Hợp Đài theo Đô Lãi Thiếp Mộc Nhân.
**Ngô Nhĩ Cổ Đại** ( , hoặc , ), cũng dịch thành "Ngột Nhi Hốt Thái" (兀兒忽太), "Ô Nhĩ Cố Đại" (烏爾古岱), là con trai của Mạnh Cách Bố Lộc, là Cáp Đạt Bối lặc
**Nhân Đức Vương hậu** (Hangul: 인덕왕후, chữ Hán: 仁德王后; ? – 1365), còn được gọi là **Lỗ Quốc Đại trưởng công chúa** (인덕왕후; 魯國大長公主), thuộc tộc Bột Nhi Chỉ Cân, là Chính thất Vương hậu
**Khôn Thiếp Mộc Nhĩ Hãn** (Gün Temür Khan) là một Khả hãn nhà Bắc Nguyên ở Mông Cổ (tiếng Mông Cổ: Гүнтөмөр хаан, 1377-1402). Gün Temür là con trai cả của Elbeg Nigülesügchi Khan. Ông
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
**Bá Nhan** (chữ Hán: 伯颜, chữ Mông Cổ: ᠪᠠᠶᠠᠨ, chuyển ngữ Poppe: Bayan, chữ Kirin: Баян, 1236 – 11/01/1295), người Bát Lân bộ (Baarin), dân tộc Mông Cổ, là tướng lĩnh nhà Nguyên trong lịch
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ
**Đà Lôi** (;  – 1232) là con trai út của Thành Cát Tư Hãn và Bột Nhi Thiếp. Với tư cách là một trong những võ tướng nổi bật nhất tham gia các cuộc chinh
nhỏ|phải|Giáp trụ của chiến binh Mông Cổ thumb|Cung thủ kỵ binh Mông Cổ. Ảnh trong tác phẩm [[Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani.]] **Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu