✨Nguyễn Văn Tồn (nhà Nguyễn)

Nguyễn Văn Tồn (nhà Nguyễn)

Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn (Chữ Hán: 阮文存, 1763–1820) là một danh tướng và nhà khai hoang đầu thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công lớn trong việc giúp Thoại Ngọc Hầu chỉ huy quân dân đào kênh Vĩnh Tế (Châu Đốc, An Giang) và giúp dân nhiều vùng trong tỉnh Vĩnh Long & Trà Vinh khai khẩn đất hoang, thành lập nhiều xóm làng.

Thân thế và sự nghiệp

Xuất thân

Nguyễn Văn Tồn nguyên gốc là người Khmer, có tên là Thạch Duồng, Thạch Duông hoặc Duyên (không có họ), sinh năm Quý Mùi (1763), tại làng Nguyệt Lãng, xã Bình Phú, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh, dưới thời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát.

Thời trẻ, ông được sung vào hàng dịch đình nô (người giúp việc trong phủ chúa), hết lòng tận tụy trung thành nên được cho chuyển làm Cai đội, lập nhiều công lớn. Chúa Nguyễn Ánh ban cho ông tứ danh là Nguyễn Văn Tồn.

Phò chúa Nguyễn Ánh

Năm Giáp Thìn (tháng 5 năm 1784), ông cùng một số tướng tá theo chúa Nguyễn Ánh chạy sang Vọng Các (Bangkok) tránh quân Tây Sơn.

Năm 1787, ông trở về theo Lê Văn Quân đánh Tây Sơn ở bảo Ba Lai. Khi chúa Nguyễn Ánh trở về nước liền sai Nguyễn Văn Tồn chiêu dụ thêm người Khmer ở xứ Trà Vinh và Mân Thít để làm lính, gọi là đồn Xiêm binh (sau đổi thành đồn Uy Viễn).

Năm 1801, ông được lệnh theo Võ Tánh giữ thành Bình Định, bị quân Tây Sơn bắt, nhưng giả hàng rồi trốn thoát được, tìm cách về Nam, tiếp tục theo phò chúa Nguyễn dưới trướng Nguyễn Văn Thành.

Khai hoang

Khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long (năm 1802), ông được thăng làm Cai cơ, Chưởng quản thủy quân doanh, đưa quân bản bộ về quê, trấn giữ đồn Uy Viễn (Trà Ôn) thuộc đạo Trấn Giang (Cần Thơ) kiêm quản xuất hai phủ là Trà Vinh và Mân Thít thuộc dinh Vĩnh Trấn (Long Hồ dinh), tiếp tục công việc mở đất, tạo lập xóm làng, giữ gìn an ninh ở biên giới Tây Nam.

Năm 1810, ông cùng Thoại Ngọc Hầu dẫn đại binh sang chiến đấu với quân Xiêm ở thành Longvek (Cao Mên). Thắng trận, ông được cử ở lại Nam Vang để giúp vua Cao Miên Ang Chan II (Nặc Chân). Năm Gia Long thứ 10 (1811), ông được triệu về kinh để nhận ban thưởng và được thăng hàm Thống chế, tước Dung Ngọc hầu.

Năm 1813, ông trở về nước, lại cai quản vùng Trà Ôn, Cầu Kè, Trà Vinh, tiếp tục chiêu dân vùng Trà Ôn, Mang Thít khai khẩn đất hoang, thành lập xóm làng.

Năm 1819, ông được triều đình bổ vào chức Điều bát nhung vụ, dẫn một đoàn dân binh Khmer khoảng 500 người, đến Châu Đốc để cùng với Thoại Ngọc Hầu, Tuyên Trung Hầu lo việc đào kinh Vĩnh Tế.

Do lao tâm, lao lực, mùng 4 tháng 1 năm Canh Thìn (tức 27 tháng 2 năm 1820), ông bị bệnh mất tại Trà Ôn (Vĩnh Long).

Tưởng thưởng công lao, năm 1828, vua Minh Mạng sắc phong ông là Trung đẳng thần, hàm ân Trung Dũng Thiên Trực, tước Dung Ngọc hầu. Vợ ông cũng được ban mỹ tự là Hiền Thục Chi Thần Thống Chế Đại Quan.

Chức danh Thống chế Điều bát của ông, hiện nay đã được dùng để đặt tên cho một con đường dài và rộng tại thị trấn Trà Ôn (Vĩnh Long).

Khu đền mộ

Lăng Thống Chế Điều Bát Khu lăng Tiền quân Thống chế Điều bát rộng khoảng 8.000m2, hiện tọa lạc tại giồng Thanh Bạch thuộc ấp Mỹ Hòa, xã Thiện Mỹ, cách thị trấn Trà Ôn (Vĩnh Long) khoảng hai cây số.

Khu lăng được xây dựng năm Canh Thìn (Minh Mạng nguyên niên, 1820), gồm có hai phần chính là đền và mộ. Đền thờ gồm có: chánh điện (bên trong có tượng của ông, ảnh trên) võ ca và nhà khách. Phần mộ của ông bà nằm phía sau miếu thờ. Mộ (song táng) có lớp tường bao quanh, và cả hai đều được xây dựng bằng vật liệu chính là ô dước.

Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, thì Nguyễn Văn Tồn có một người con tên Nguyễn Văn Vỵ, làm Vệ úy ở đồn Tịnh Biên (Châu Đốc). Sau, có người tố cáo Vỵ theo Lê Văn Khôi chống Nguyễn, nhưng vì Vỵ đã chết và vì nhà vua Minh Mạng nghĩ tình cha nên không truy cứu tội con.

Theo Đại Nam thực lục: Giáp Ngọ, năm Minh Mệnh thứ 15 [1834], ... Nguyễn Văn Vị, nguyên Phó quản đồn đồn Uy Viễn, đi theo quân triều đình đánh thành Phiên An. Nguyễn Văn Vị chế thuốc độc không hiệu quả nên bị phạt 80 trượng và điều về Vĩnh Long. Sau khi bình định được thành Phiên An:

Năm 1835 ... Quan tỉnh Vĩnh Long tâu nói : “Nguyên quản đồn Uy Viễn là Nguyễn Văn Vị, trước đây, lầm lạc đi với giặc, theo luật, bố đáng phải tội lây. Vậy sắc cáo trục mà bố hắn là Nguyễn Văn Tồn đã được, có nên thu lại và tiêu hủy đi không”. Vua nói : “Nguyễn Văn Tồn, lúc đầu trung hưng, theo đi đánh giặc, rõ ràng có nhiều công lao, con hắn hư hỏng thì con đó phải chịu cái lo vào mình, chứ không thể xóa nhòa công của Tồn và không thể tiêu huỷ cáo trục của Tồn được. Vậy nên giao cáo trục cho thân nhân giữ lấy”. (Vị trước nhận chức ngụy Đô quản lĩnh, sau đem quân Phiên, theo quan quân, vây giữ trường lũy ; khi bị người tố giác bị giải về Kinh, chết ở dọc đường. Thân thuộc của Vị, đến đây, cũng gia ơn rộng tha).
Tuy nhiên, con cháu ông Tồn không còn được triều đình dành cho nhiều đặc ân nữa. Ngay việc hương hỏa cho ông, nhà Nguyễn cũng phó mặc cho dân địa phương. Mãi đến đầu thế kỷ 20, người dân nơi đây nghĩ tới công đức của ông, nên đã tự quyên góp trùng tu khu đền mộ và thành lập hội Mỹ Thanh để lo việc trông nom và cúng tế.

Hàng năm, vào ngày mùng ba, mùng 4 tháng Giêng (âm lịch) là lễ giỗ ông, được tổ chức rất long trọng, quy tụ hàng ngàn người dân xa gần thuộc ba dân tộc: Kinh, Hoa và Khmer đến cúng bái.

Từ đó cho đến nay khu lăng được trùng tu nhiều lần và đã được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia vào ngày 26 tháng 3 năm 1996.

Ngộ nhận

Mộ Nguyễn Văn Tồn (bên phải ảnh) và vợ Trong sách Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long do Khoa Ngữ văn Trường Đại học Cần Thơ tổ chức sưu tầm và biên soạn, ở truyện Sự tích đền ông Duôn có đoạn: :"ông Duôn (tức Thống Chế Điều Bát) là người "vốn chịu ơn sâu Tả quân Lê Văn Duyệt, nên khi vua Minh Mạng nhỏ nhen lấy thù cũ đối xử tệ bạc với vị công thần này thì ông Duôn vô cùng tức giận. Ông tìm đến Lê Văn Khôi xin đứng dưới cờ, nổi lên đánh tan tác quan quân nhà Nguyễn...Khi thành Gia Định bị vỡ, Minh Mạng bắt hơn ba ngàn người chém đầu. Ông Duôn thoát ra được và về quê hương ở Trà Ôn ẩn náu. Bọn quan lại địa phương biết ông là tử tội đang bị truy nã nhưng sợ oai ông nên nhắm mắt làm ngơ"...

Ở đây, dân gian nhớ chuyện của con (Nguyễn Văn Vỵ) lẫn lộn qua chuyện của cha. Bởi khi Lê Văn Khôi làm binh biến năm 1832, thì ông Duôn đã mất lâu rồi (1820). Đáng tiếc là sách biên khảo trên đã tái bản đến lần thứ hai, mà vẫn không có lời giải thích hay chú thích nào.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
Thống chế Điều bát **Nguyễn Văn Tồn** (Chữ Hán: 阮文存, 1763–1820) là một danh tướng và nhà khai hoang đầu thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công lớn trong
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
**Nguyễn Văn Trương** (; 1740 - 1810), là một trong Ngũ hổ tướng Gia Định, và là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
**Nguyễn Văn Thái** (sinh năm 1982) là một nhà bảo tồn, nhà môi trường học người Việt Nam. Sinh tại xã Văn Phương, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Anh hiện là giám đốc Trung
**Đào Văn Hổ**: một tướng lĩnh cao cấp của phong trào Tây Sơn ## Hành trạng Đào Văn Hổ tham gia phong trào Tây Sơn từ sớm, dưới trướng của Tây Sơn vương Nguyễn Văn
**Nguyễn Đăng Giai** (阮登楷 hay 阮登階, ? - 1854) tự **Toản Phu**; là danh thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông là người làng Phù Chánh, huyện
**Nguyễn Thiện Nhân** (sinh năm 1953) tại xã Phương Trà, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh là chính trị gia, Giáo sư kinh tế và Tiến sĩ chuyên ngành Tự động hóa. Ông hiện là
**Nguyễn Xuân Ôn** (1825 – 1889), hiệu **Ngọc Đường**, **Hiến Đình**, **Lương Giang** nhân dân thường gọi ông là **Nghè Ôn**; là quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở
**Lý Văn Phức** (chữ Hán: 李文馥, 1785–1849), tự là **Lân Chi**, hiệu **Khắc Trai** và **Tô Xuyên**; là một danh thần triều Nguyễn và là một nhà thơ Việt Nam. ## Tiểu sử **Lý Văn
Đình Đông Phù, Thanh Trì là nơi thờ sứ quân Nguyễn Siêu **Nguyễn Siêu** (chữ Hán: 阮超; 924 - 967) hiệu _Nguyễn Hữu Công_ (阮右公) là một sứ quân nổi dậy thời loạn 12 sứ
**Trần Văn Năng** (陳文能, 1763 - 1835), là tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp **Trần Văn Năng** là người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa. Năm Đinh Dậu (1777), ông
**Từ Văn Tú** là một tướng lĩnh quan trọng của phong trào Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Từ Văn Tú là một nhân vật đóng vai trò quan trọng trong
**Diana Khôi Nguyễn** là nhà thơ và họa sĩ truyền thông đa phương tiện người Mỹ gốc Việt. Thi phẩm đầu tay của cô có nhan đề _Ghost Of_ đã lọt vào vòng chung kết
**Nguyễn Phúc Bửu Thạch** (Hán Nôm: **阮福寶石**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông là cháu nội của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (阮福洪依), con của Kiến Thụy quận
**Nguyễn Danh Phương** (阮名芳, 1690-1751), hay còn gọi **Quận Hẻo**, là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ 18. ## Xuất thân Nguyễn Danh Phương là người
**Nguyễn Thị Ngọc Du** (chữ Hán: 阮氏玉琇; 1762 – 1820), phong hiệu **Phúc Lộc Công chúa** (福祿公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền** (chữ Hán: 阮福玉璿; 1764 – 1782), phong hiệu **Minh Nghĩa Công chúa** (明義公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
Quốc giáo của nhà Thương () là một tôn giáo cổ đại của Trung Quốc, trong đó các tín đồ được đào tạo giao tiếp với nhiều vị thần, bao gồm tổ tiên và các
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
nhỏ|289x289px|_Khuê Văn Các_ - biểu tượng của Thủ đô [[Hà Nội. Đây là nơi học sinh thường hay chụp ảnh trong những lễ tốt nghiệp]]**Văn Miếu – Quốc Tử Giám** là quần thể di tích
**Tự Lực văn đoàn** (chữ Hán: , tiếng Pháp: ) là tổ chức văn học mang tính hội đoàn, một nhóm nhà văn đã tạo nên một trường phái văn học, một phong trào cách
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
Một nông dân [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập cổ đang cày ruộng bằng cày có bò kéo]] nhỏ|300x300px|[[Ai Cập cổ đại là một ví dụ điển hình của một nền văn hóa sơ khai được
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
nhỏ||315x315px nhỏ|255x255px|Đền thờ Ninh Tốn **Ninh Tốn** (chữ Hán: 寧遜, 1744-1795), tự **Khiêm Như** sau đổi là **Hi Chí**, hiệu **Mẫn Hiên**, **Chuyết Sơn cư sĩ**, **Song An cư sĩ**; là nhà thơ, nhà sử
**Giuse Maria Trịnh Văn Căn** (19 tháng 3 năm 1921 – 18 tháng 5 năm 1990) là một hồng y và dịch giả Công giáo người Việt Nam. Ông cũng là Tổng giám mục thứ
thế=Groups of two to twelve dots, showing that the composite numbers of dots (4, 6, 8, 9, 10, and 12) can be arranged into rectangles but the prime numbers cannot|nhỏ| Hợp số có thể được
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Tôn Thất Thuyết** (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự **Đàm Phu** (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều