Nguyễn Phúc Miên Nghi (chữ Hán: 阮福綿宜; 30 tháng 12 năm 1810 – 12 tháng 8 năm 1874), là một hoàng tử của nhà Nguyễn. Ông nổi tiếng là người có tài thơ ca và phát triển mảng nông nghiệp.
Tiểu sử
Miên Nghi là con trai thứ tư của Minh Mạng, mẹ là Trang tần Trần Thị Tuyến (陳氏線; 1791 - 1852), con gái của Vệ uý Trần Công Nghị. Trước kia, ông còn có húy là Dục (昱). Sau khi Minh Mạng lên ngôi đã ban Ngự chế Kim sách về Đế hệ thi thì ông mới được đổi tên thành Nguyễn Phúc Miên Nghi (阮福綿宜). Ông còn là anh cùng mẹ với Trấn Man Quận công Miên Tích (hoàng tử thứ 23 của Minh Mạng).
Thời Minh Mạng
Sử sách ghi lại, hoàng tử Miên Nghi là một người khôi ngô, vóc dáng cao to, tính khí hào hùng. Khi tới tuổi được mở phủ đệ thì học hành giỏi cả văn lẫn võ, đọc rộng khắp các kinh sử và là một tay cưỡi ngựa bắn cung thạo cả lục nghệ.
Năm Minh Mạng thứ 11 (1830), ông được phong làm Đức Thọ công (德壽公), sang năm thứ 14 thì cải phong thành Ninh Thuận công (寧順公). Khi đổi phong, vua Minh Mạng dụ Nội các rằng: “Miên Nghi tính chất bình thường, đức nghiệp chưa tiến, mà phong tước hiệu là Đức Thọ thì thực quá đáng, vì danh không xứng với thực. Vậy đổi phong là Ninh Thuận công, khiến cho càng thêm tỉnh thức trau dồi, học hành ngày càng tiến để có ý tha thiết của vua cha dạy dỗ tôi con”.
Năm thứ 17 (1836), vua sai ông tạm giữ chức Tả Tôn nhân Tôn Nhân phủ. Năm 1840, Minh Mạng lại sai Miên Nghi cùng Hoàng trưởng tử Miên Tông (vua Thiệu Trị sau này) thực tập chính sự, duyệt lại danh sách xét án mùa thu, công đều nhường Hoàng trưởng tử quyết định, được vua khen ngợi.
Trong một lần ông cùng Miên Tông tháp tùng theo vua cha đi thăm lúa ở ruộng tịch điền phía Bắc phòng thành, vua quay lại bảo 2 hoàng tử rằng: “Trẫm vừa xem xây đắp mặt trong về bên tả Kinh thành, sai đem con trâu nhà nước ra kéo xe đất, trâu tức thì nằm phục xuống không đi. Đó vì trâu ấy ở Thừa Thiên được chăn nuôi đã ba năm nay, chưa từng bắt đi cày, nên lười biếng quen tính, một khi dùng đến, không chịu nổi! Trâu còn như thế, huống chi là người!”. Vua bảo tiếp: “Phàm con nhà giàu sang ăn ngon mặc đẹp không quen vất vả thì đến lúc làm việc làm chẳng nổi. Trẫm từ ngày lên ngôi coi chầu xét việc đến khi xế bóng mới nghỉ, dầu ở cung cũng xem xét các sớ chương ở các nơi gởi về. Trẫm nghĩ có siêng năng thì việc mới thành nên chẳng dám nhàn rỗi. Các con còn trẻ có sức mạnh nên tập làm việc chớ ham chơi bời, biếng nhác”.
Thời Tự Đức
Năm Tự Đức thứ 3, công xin được lập nhà Tôn học để dạy cho con cháu của các hoàng thân, vua cho là phải. Sau ông lại xin cho phạm nhân là Cử nhân Phan Văn Xưởng làm chức giảng tập trong phủ Tôn Nhân. Vua mắng trách rằng: “Việc giáo tập tất phải lấy người có đức hạnh văn chương mới có thể làm mô phạm, nếu lấy người phạm tội sung vào, thì sự thể còn ra sao nữa?”, vua không cho.
Ninh Thuận công cho dựng cơ nghiệp ở phía Đông thành, sống đạm bạc giản dị, những lúc nhàn rỗi thì đọc sách, đọc chán lại ra đồng lo việc cỏ lúa. Năm Tự Đức thứ 5, ông dâng lên vua thứ lúa tốt, nhân đó Tự Đức làm tặng ông bài thơ “Gia hoà” và cho thưởng kim tiền.
Năm thứ 18, Tự Đức chuẩn cho ông được miễn lạy khi vào triều, để tỏ chí ý tôn thân, sai giữ chức Hữu tôn chính phủ Tôn Nhân. Nhân mừng thọ Ninh Thuận công được 60 tuổi, vua ban cho phẩm vật và tặng một bài thơ:
:::''Ác chưởng đồng chu nhật
:::''Thân tình tứ trượng niên
:::''Trung phương ưng tự bích
:::''Ngoại trực phỉ y liên
:::''Ngu lão tam bôi tửu
:::''Di tôn sở khoảnh điền
:::''Vạn thuần phù ý phạm
:::''Viên giác cửu di kiên
Năm thứ 37, Tự Đức có ý tấn phong Ninh Thuận công và Thọ Xuân công làm Quận vương. Cả hai đều cho là theo lệ quốc triều, các thân phiên lúc còn sống chưa có ai được phong tước vương cả. Vua không cho, “buộc” cả hai phải nhận. Thọ Xuân công bèn nhận lễ phong.
Còn Ninh Thuận công, sau vì mắc bệnh nên chưa kịp tuyên phong thì đã chết, thọ 64 tuổi. Vua nghe tin ông chết thì thương xót, nghỉ triều 3 ngày, lấy tước vương mới phong, chuẩn đổi làm truy tặng, tức Ninh Thuận Quận vương (寧順郡王), thụy là Đoan Túc (端肅) .
Ngày an táng, vua sai quan đến tế một đàn, cho dựng đền ở xã Tiên Nộn, huyện Phú Vinh (nay là Phú Vang).
Gia quyến
Cha: Minh Mạng.
Mẹ: Trang tần Trần Thị Tuyến.
*Em trai: Trấn Man Quận công Nguyễn Phúc Miên Tích (1823 - 1866), trước tên là Thực (㝜). Năm 21 tuổi được phong làm Quận công. Mất dưới thời Tự Đức, thụy là Cung Huệ (恭惠), cho dựng đền thờ ở ấp Trung Bộ, huyện Hương Trà. Có chín con trai và tám con gái. Con trai thứ 7 là Hồng Tuynh tập phong Kỳ ngoại hầu.
Ninh Thuận Quận vương có tất cả 34 con trai và 41 con gái.
Con trưởng Nguyễn Phúc Hồng Tự, ân phong Hàm Ân Đình hầu, sau tập tước làm Ninh Thuận Huyện công
Con thứ Nguyễn Phúc Hồng Phẩm, tập phong Ninh Thuận Huyện hầu
Con thứ Nguyễn Phúc Hồng Kỷ
Con thứ Nguyễn Phúc Hồng Duy
*Công nữ Hy Lợi, lấy Cẩm y Hiệu úy Nguyễn Khoa Thi, có con trai là Nguyễn Khoa Kiểm. Kiểm lấy Mậu Lâm công chúa Đoan Cẩn, con vua Thiệu Trị.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Miên Nghi** (chữ Hán: 阮福綿宜; 30 tháng 12 năm 1810 – 12 tháng 8 năm 1874), là một hoàng tử của nhà Nguyễn. Ông nổi tiếng là người có tài thơ ca và
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Phúc Miên Lâm** (chữ Hán: 阮福綿㝝; 20 tháng 1 năm 1832 – 28 tháng 12 năm 1897), tước phong **Hoài Đức Quận vương** (懷德郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Thần** (chữ Hán: 阮福綿宸; 16 tháng 2 năm 1817 – 7 tháng 10 năm 1878), tước phong **Nghi Hòa Quận công** (宜禾郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Trữ** (chữ Hán: 阮福綿宁; 11 tháng 7 năm 1820 – 20 tháng 8 năm 1890), tước phong **Tuân Quốc công** (遵國公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Dần** (chữ Hán: 阮福綿寅, 18 tháng 4 năm 1829 – 9 tháng 3 năm 1885), tước phong **Trấn Tĩnh Quận công** (鎮靖郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Hoành** (chữ Hán: 阮福绵宏; 12 tháng 7 năm 1811 – 23 tháng 11 năm 1835), trước có tên là **Nguyễn Phúc Thự** (阮福曙). Ông là người con thứ hai của bà Hiền
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
**Nguyễn Phúc Miên Phú** (chữ Hán: 阮福綿富; 28 tháng 2 năm 1817 – 15 tháng 4 năm 1885), tước phong **Phù Mỹ Quận công** (符美郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo** (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là **Nguyễn Phúc Miên An** (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng
**Nguyễn Phúc Hồng Nghĩ** (hoặc **Nghi**) (chữ Hán: 阮福洪儗; 5 tháng 8 năm 1839 – 22 tháng 10 năm 1864), tước phong **Hương Sơn Quận công** (香山郡公), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị
**Nguyễn Phúc Miên Mật** (chữ Hán: 阮福綿宓, 17 tháng 8 năm 1825 – 23 tháng 5 năm 1847), hiệu là **Vân Đình** (芸亭), tước phong **Quảng Ninh Quận vương** (廣寧郡王), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Miên Thanh** (chữ Hán: 阮福綿寈; 18 tháng 9 năm 1830 – 6 tháng 2 năm 1877), tự là **Giản Trọng** (柬仲), hiệu là **Quân Đình** (筠亭), tước phong **Trấn Biên Quận công** (鎮邊郡公),
**Nguyễn Phúc Miên Tống** (chữ Hán: 阮福綿宋; 17 tháng 3 năm 1822 – 2 tháng 3 năm 1858), tước phong **Hà Thanh Quận công** (河清郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Lịch** (chữ Hán: 阮福綿𡫯; 13 tháng 5 năm 1841 – 5 tháng 11 năm 1919), tước phong **An Thành vương** (安城王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Tể** (chữ Hán: 阮福綿宰; 21 tháng 10 năm 1822 – 5 tháng 12 năm 1844), tự là **Trọng Chân** (仲真), hiệu **Tùng Thự** (松墅), tước phong **Nghĩa Quốc công** (義國公), là một
**Nguyễn Phúc Miên Tích** (chữ Hán: 阮福綿㝜; 8 tháng 3 năm 1823 – 5 tháng 8 năm 1866), trước có tên là **Miên Thực** (绵寔), tước phong **Trấn Man Quận công** (鎮蠻郡公), là một hoàng
**Nguyễn Phúc Miên Bàng** (chữ Hán: 阮福綿㝑; 5 tháng 6 năm 1838 – 19 tháng 8 năm 1902), tước phong **An Xuyên vương** (安川王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Ngụ** (chữ Hán: 阮福綿寓; 29 tháng 4 năm 1833 – 20 tháng 3 năm 1847), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Nguyễn Phúc Bửu Thạch** (Hán Nôm: **阮福寶石**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông là cháu nội của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (阮福洪依), con của Kiến Thụy quận
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Nguyễn Phúc Đài** (chữ Hán: 阮福旲; 5 tháng 10 năm 1795 – 14 tháng 11 năm 1849), tước phong **Kiến An vương** (建安王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Hồng Cai** (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu **Kiên Thái vương** (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Hồng Y** (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 1833 – 23 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu **Thụy Thái vương** (瑞太王) (còn được đọc trại thành **Thoại Thái vương**), biểu tự **Quân
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Bính** (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong **Định Viễn Quận Vương** (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Phổ** (chữ Hán: 阮福普; 3 tháng 5 năm 1799 – 11 tháng 9 năm 1860), tước phong **Điện Bàn Công** (奠盤公), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Tường Hòa** (chữ Hán: 阮福祥和; 14 tháng 6 năm 1827 – 28 tháng 6 năm 1847), phong hiệu **Nghĩa Hà Công chúa** (義河公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Chú** (chữ Hán: 阮福澍, 1697-1738) hay **Trú** hay **Thụ** trấn Hà Tiên, để giữ gìn và mở mang xứ ấy. Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12 (1737), triều đình định lại quan
**Nguyễn Phúc Như Lý** (阮福如李), tức Bá tước phu nhân xứ De la Besse (1908 – 2005), là con gái thứ của Hoàng đế Hàm Nghi, nhà Nguyễn với vợ là bà Marcelle Laloë. ##
**Nguyễn Phước Mỹ Đường** (阮福美堂, 1798 - 1849), còn có tên là **Nguyễn Phước Đán** (阮福旦) là hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, là đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long.
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Phúc Hồng Hưu** (chữ Hán: 阮福洪休; 2 tháng 10 năm 1835 – 9 tháng 5 năm 1885), còn có tên khác là **Thuyên** (佺). Lúc còn nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, biết lĩnh
**Nguyễn Phúc Hồng Tố** (chữ Hán: 阮福洪傃; 25 tháng 10 năm 1834 – 18 tháng 9 năm 1922), tước phong **Hoằng Trị vương** (弘治王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Tấn** (chữ Hán: 阮福晉; 21 tháng 3 năm 1799 – 17 tháng 7 năm 1854), còn có huý là **Thản**, tước phong **Diên Khánh Vương** (延慶王), là một hoàng tử con vua Gia
:_Bài này viết về công chúa con vua Gia Long, về công nữ có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến** (chữ Hán: 阮福玉玔; 20 tháng 10 năm 1792 – 1851),
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Nguyễn Phúc Gia Tiết** (chữ Hán: 阮福嘉節; 27 tháng 12 năm 1823 – 1 tháng 12 năm 1841), phong hiệu **Mỹ Ninh Công chúa** (美寧公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Ngọc Anh** (chữ Hán: 阮福玉瑛; 1790 – 1850), phong hiệu **Bảo Lộc Công chúa** (保祿公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Hồng Kháng** (chữ Hán: 阮福洪伉; 5 tháng 5 năm 1837 – 19 tháng 2 năm 1865), tước phong **Phong Lộc Quận công** (豐祿郡公), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
:_Bài này viết về hoàng tử con vua Gia Long, về công tử có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Mão** (chữ Hán: 阮福昴; 25 tháng 10 năm 1813 – 18 tháng