Nguyễn Phúc Hồng Hưu (chữ Hán: 阮福洪休; 2 tháng 10 năm 1835 – 9 tháng 5 năm 1885), còn có tên khác là Thuyên (佺). Lúc còn nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, biết lĩnh hội việc học, chịu khó học kinh sử.
Tháng 11 (âm lịch) năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), xa giá của vua dạo chơi, thăm ruộng tịch điền, xem gặt lúa. Muốn cho các hoàng tử biết sự khó nhọc của việc cấy gặt, vua sai các hoàng tử xuống ruộng gặt lúa. Hoàng tử Hồng Hưu theo xa giá đi rắc thóc, được thưởng cho cái khánh ngọc cát tường, ngọc đeo, chén vàng mỗi thứ đều 1 cái.
Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), tháng giêng, vua cho triệu các hoàng tử và hoàng đệ chưa được phong tước tất cả 10 người vào làm thơ ở điện Đông Các. Bảy người trong số đó là các hoàng tử Hồng Phó, Hồng Y, Hồng Tố, Hồng Hưu và các hoàng đệ Miên Tằng, Miên Kiền, Miên Lâm đều trúng cách. Vua khen, bảo rằng: “Đây là làm theo thơ vua làm, cũng có ý; nhưng trẻ con mới học, há nên cầu toàn? Còn chữ “quốc khánh” nên đổi là “hiệu quyển” (lòng trời yêu), chữ “chiếu thư” nên đổi là “quốc ân” (ơn của nước)”. Các hoàng thân được phong tước lần đầu thường chỉ làm Quận công hoặc Quốc công, nhưng cả Hồng Y và Hồng Hưu đều được đặc cách phong ngay đến tước Thân công, chứng tỏ hai ông rất được vua cha ưu ái.
Tháng 5 (âm lịch) cùng năm, vua sai các hoàng tử lớn chia nhau đến đàn Nam Giao, các miếu thờ tẩm điện, đàn Xã Tắc để cáo lễ khánh tiết. Cuối tháng đó, vua làm lễ cày ruộng tịch điền, Gia Hưng công Hồng Hưu theo hầu rắc thóc.
Năm 1878, nhân tiết Đại khánh ngũ tuần (mừng thọ vua 50 tuổi) của Tự Đức, hoàng đệ Hồng Hưu chuẩn cho mỗi năm được tặng bổng thêm 200 quan tiền và 50 phương gạo.
Năm Tự Đức thứ 35 (1882), tháng 7 (âm lịch), đổi sung chức ở phủ Tôn nhân, Gia Hưng công Hồng Hưu được sung chức Tả tôn nhân, còn Lãng Quốc công Hồng Dật được sung chức Hữu tôn nhân. Năm sau, vua Tự Đức băng hà, hai quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phế truất vua Dục Đức mới lên ngôi, lập quốc công Hồng Dật lên ngôi, tức vua Hiệp Hòa. Lễ lên ngôi xong, Hồng Hưu được vua em gia phong làm Gia Hưng Quận vương (嘉興郡王), lại cho ông kiêm nhiếp chức Hữu tôn nhân trước đây của vua.
Vua Hiệp Hòa làm vua cũng chỉ được 4 tháng thì bị hai ông Tường và Thuyết phế truất và giết đi. Vua Kiến Phúc còn trẻ lên ngôi, hoàng thân phủ Tôn nhân khuyên Tân đế chọn thêm người thân thuộc để lo quản triều chính, vua y chuẩn chọn quận vương Hồng Hưu sung làm Phụ chính đại thần, phụ lo việc triều chính. Vài ngày sau, quận vương Hồng Hưu tới điện Hòa Khiêm thay vua làm lễ bái yết, lễ xong thì các quan viên cho đến binh lính được ban các loại tiền đồng, vàng bạc theo thứ bậc. Quận vương Hồng Hưu được vua Kiến Phúc ban cho một đồng kim tiền hạng to, trên đó khắc 4 chữ Vạn sự vĩnh lai (“Muôn đời nhớ mãi”) và một cái nhẫn vàng có khảm đá mắt mèo, tỏ ý ưu ái ông.
Sang năm sau (1884), tháng 2 (âm lịch), vua lại tấn phong cho ông làm Gia Hưng vương (嘉興王), kiêm sung chức Tôn chính phủ Tôn nhân. Vì lẽ tước Thân vương của triều Nguyễn rất ít khi được ban phong, thường chỉ dành để truy phong mà thôi, Hồng Hưu lại được tấn phong đến hàng Thân vương là điều khá vinh quý.
Tháng 9 (âm lịch) năm đó, là năm Hàm Nghi thứ nhất, Trấn Tĩnh Quận công Miên Dần (hoàng tử thứ 45 của vua Minh Mạng) dâng sớ hặc tội Gia Hưng vương vì việc tư bỏ việc công, tiết lộ quốc gia trọng sự, lại chuyện loạn dâm với người em gái khác mẹ là Đồng Xuân Công chúa Gia Phúc (út nữ của vua Thiệu Trị) làm bại hoại gia phong, lệnh phủ Tôn nhân điều tra. Đại Nam thực lục chép lại, Gia Hưng vương và chúa Gia Phúc tư thông, sinh được một con gái.
Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nhân đó cũng dâng sớ tâu bày, điều tra ra Gia Hưng vương Hồng Hưu hay qua lại với Khâm sứ Đại Pháp là Rheinart (tên tiếng Việt phiên âm là Lê Na), tố cáo thực hư, án thành.
Năm Đồng Khánh thứ nhất (1885), vua xuống dụ cho Hồng Hưu được khai phục làm Gia Hưng công, các con cũng cho nhập lại tông tịch. Gia Phúc cũng được phục vị Công chúa, nhưng cải huy hiệu thành Phục Lễ. Ông được ban thụy là Cung Túc (恭肅), phủ thờ nay tọa lạc tại phường Gia Hội, Huế. Năm 1941, dưới thời vua Bảo Đại, quận vương Hồng Hưu được tấn tặng làm Gia Hưng vương (嘉興王).
Gia quyến
Anh chị em
Gia Hưng vương Hồng Hưu là con đầu lòng của bà Lương phi Võ Thị Viên. Ngoài ra, ông còn 5 người em cùng mẹ là:
*An Phúc Quận vương Hồng Kiện (6 tháng 5 năm 1837 – 15 tháng 7 năm 1895).
- Hoàng tử Hồng Bàng (30 tháng 6 năm 1838 – 21 tháng 7 năm 1853), mất sớm chưa được phong tước.
*Đồng Phú Công chúa Ý Phương (1840 – 1915), lấy phò mã Trần Quang Phổ.
- Hoàng tử Hồng Thụ (22 tháng 10 năm 1842 – 26 tháng 8 năm 1843), chết non.
- Hoàng nữ Minh Tư (1845), chết non.
Con cái
Gia Hưng vương Hồng Hưu có 10 con trai và 15 con gái. Trước đây, 7 công tử con ông bị bắt đi an trí là Ưng Huy, Ưng Diễn (ở cùng chỗ với cha), Ưng Chân, Ưng Dũng (giao về Nghệ An), Ưng Linh, Ưng Tân, Ưng Vệ (giao về Hà Tĩnh).
- Công tử Ưng Chân, con trai thứ 3 của Vương, là con của thứ thất Nguyễn Văn Thị Quang, sinh năm Mậu Ngọ (1858). Thứ thất Nguyễn thị là con gái của thường dân Nguyễn Văn Đắc, quê ở phủ Thừa Thiên.
- Công tử Ưng Huy, con trai thứ 7 của Vương, được tập phong làm Gia Hưng Quận công, sung chức Tả tôn khanh Tôn nhân phủ.
Trong văn hoá đại chúng
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Hồng Hưu** (chữ Hán: 阮福洪休; 2 tháng 10 năm 1835 – 9 tháng 5 năm 1885), còn có tên khác là **Thuyên** (佺). Lúc còn nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, biết lĩnh
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Nguyễn Phúc Hồng Y** (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 1833 – 23 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu **Thụy Thái vương** (瑞太王) (còn được đọc trại thành **Thoại Thái vương**), biểu tự **Quân
**Nguyễn Phúc Hồng Cai** (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu **Kiên Thái vương** (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Hồng Tố** (chữ Hán: 阮福洪傃; 25 tháng 10 năm 1834 – 18 tháng 9 năm 1922), tước phong **Hoằng Trị vương** (弘治王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Hồng Kiện** (chữ Hán: 阮福洪健; 6 tháng 5 năm 1837 – 15 tháng 7 năm 1895), tước phong **An Phúc Quận vương** (安福郡王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Hồng Kháng** (chữ Hán: 阮福洪伉; 5 tháng 5 năm 1837 – 19 tháng 2 năm 1865), tước phong **Phong Lộc Quận công** (豐祿郡公), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Hồng Phó** (chữ Hán: 阮福洪付; 20 tháng 4 năm 1833 – 8 tháng 5 năm 1890), tước phong **Thái Thạnh Quận vương** (泰盛郡王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Ưng Huy** (chữ Hán: 阮福膺䘗; 14 tháng 2 năm 1866 – 9 tháng 6 năm 1927) là quan lại, tôn thất nhà Nguyễn và là con trai thứ bảy của Gia Hưng vương
**Nguyễn Phúc Gia Phúc** (chữ Hán: 阮福嘉福; 1847 – 1888), phong hiệu **Phục Lễ Công chúa** (復禮公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Bà là vị
**Nguyễn Phúc Hồng Bàng** (chữ Hán: 阮福洪傍; 30 tháng 6 năm 1838 – 21 tháng 7 năm 1853), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông mất
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Phúc Vĩnh Cẩn** (chữ Hán: 阮福永𧯢, 1914 - ?) là Hoàng thân triều Nguyễn. Ông là cháu cố của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, là cháu nội của Kiên Quận công Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Nghi** (chữ Hán: 阮福綿宜; 30 tháng 12 năm 1810 – 12 tháng 8 năm 1874), là một hoàng tử của nhà Nguyễn. Ông nổi tiếng là người có tài thơ ca và
**Nguyễn Phúc Bửu Hội** (1915 – 28 tháng 1 năm 1972) là nhà ngoại giao và nhà khoa học Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Phúc Bửu Hội quê quán ở Huế. Thân phụ của
**Nguyễn Phúc Bửu Trác** (Hán Nôm: **阮福寶卓**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông sinh năm 1887 tại Huế, thuộc đệ tam hệ chánh phòng Văn Lãng quận vương Nguyễn Phúc
**Nguyễn Phúc Bửu Thạch** (Hán Nôm: **阮福寶石**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông là cháu nội của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (阮福洪依), con của Kiến Thụy quận
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Phúc Miên Lâm** (chữ Hán: 阮福綿㝝; 20 tháng 1 năm 1832 – 28 tháng 12 năm 1897), tước phong **Hoài Đức Quận vương** (懷德郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Kiền** (chữ Hán: 阮福綿𡨊; 28 tháng 9 năm 1831 – 20 tháng 7 năm 1854), tự là **Trọng Cung** (仲恭), **Thúc Cung** (叔恭), hiệu là **Chi Hựu** (止囿). Ông là người con
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo** (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là **Nguyễn Phúc Miên An** (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng
**Nguyễn Phúc Miên Tằng** (còn có âm đọc là **Tăng**) (chữ Hán: 阮福綿𡪠; 27 tháng 10 năm 1828 – 16 tháng 4 năm 1896), tước phong **Hải Quốc công** (海國公), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
**Nguyễn Phúc Ý Phương** (chữ Hán: 阮福懿芳; 1840 – 1915), phong hiệu **Đồng Phú Công chúa** (同富公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Miên Cung** (chữ Hán: 阮福綿宮; 17 tháng 1 năm 1824 – 2 tháng 10 năm 1849), tước phong **Sơn Định Quận công** (山定郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Bính** (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong **Định Viễn Quận Vương** (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Phương Liên** của Việt Nam (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1938) là con gái của Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam, và người vợ đầu tiên của ông,
**Nguyễn Phúc Miên Ngô** (còn có âm đọc là **Ngộ**) (chữ Hán: 阮福綿𡨂; 9 tháng 6 năm 1831 – 13 tháng 9 năm 1873), tước phong **Quế Sơn Quận công** (桂山郡公), là một hoàng tử
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
Nước Hoa Hồng Hữu Cơ Corine de Farme Organic Rose Water 200mlCorine de Farme mang lại cho bạn một phương thức làm đẹp thiết yếu, đặc biệt thích hợp cho làn da nhạy cảm. Corine
**Nguyễn Giản Tông** (chữ Hán:阮簡宗; 12 tháng 2 năm 1869 – 31 tháng 7 năm 1884), tên thật là **Nguyễn Phúc Ưng Đăng** (阮福膺登), là vị hoàng đế thứ bảy của triều đại nhà Nguyễn
**Nguyễn Văn Siêu** (chữ Hán: 阮文超, 1799 - 1872), ban đầu tên là **Định**, sau đổi là **Siêu**, còn gọi là **Án Sát Siêu**, tự: **Tốn Ban**, hiệu: **Phương Đình**, là nhà thơ, nhà nghiên
**Đông Hải Đại Vương** (chữ Hán: 東海大王) hay **Nguyễn Phục** (阮復) hay còn gọi Phục Công (復公) hiệu là Tùng Giang tiên sinh (松江先生) là một vị quan thời Lê sơ trong lịch sử Việt
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
Kem hữu cơ trẻ hóa da ban đêm Na&T Story cream night rose de nuit kích thích và củng cố quá trình tái tạo tự nhiên của làn da trong khi ngủ. Với hỗn hợp
**Hồng Kông** (, , ; ), tên chính thức là **Đặc khu hành chính Hồng Kông thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa**, là một vùng đô thị đặc biệt, cũng như một trong hai
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
Toner Natura Siberica, làm sạch sâu cho da dầu và da hỗn hợp.Trong thành phần của thuốc bổ, ở những nơi đầu tiên là chất chiết xuất từ các loại dược liệu.Đây là liều thuốc
**Hoàng Hữu Nhân** (1915 - 1999) là nhà hoạt động cách mạng, chính khách Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông đã từng giữ các chức vụ Ủy viên Ủy ban Hành