Nguyễn Phúc Bính (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong Định Viễn Quận Vương (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Hoàng tử Bính sinh ngày 16 tháng 7 (âm lịch) năm Đinh Tỵ (1797), là con trai thứ 6 của vua Gia Long, mẹ là Tiệp dư Dương Thị Sự. Ngoài hoàng tử Bính, bà Tiệp dư còn sinh hạ một hoàng nữ, là An Lễ Công chúa Ngọc Cửu (1802 – 1846), con gái thứ 8 của Gia Long.
Thời Gia Long
Thuở còn trẻ, hoàng tử Bính ham chơi bời nên thường bị vua cha trách phạt, Thái tử Đảm (vua Minh Mạng sau này) đã nhiều lần xin vua tha cho ông. Về sau, ông biết hối cải, say mê học tập, hành động theo lễ giáo, được khen ngợi.
Hoàng tử Bính là người say mê bộ môn hát tuồng. Năm Gia Long thứ 15 (1816), ông dung túng cho bọn thuộc hạ trong phủ đi dụ dỗ con gái nhà dân làm nghề con hát. Việc đến tai Gia Long, vua rất giận nên sai người đánh hoàng tử rất đau. Thái tử Đảm khóc xin cha tha cho em. Vua không cho, quay ra bảo các tướng Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Đức Xuyên rằng: "Từ nay hoàng tử hoàng tôn có làm gì trái phép, bọn ngươi phải báo cáo trẫm biết".
Năm thứ 16 (1817), hoàng tử Bính được phong làm Định Viễn công (定遠公).
Thời Minh Mạng
Thái tử Đảm lên ngôi, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Vua rất quý các hoàng đệ, cứ 5 ngày một lần sai người đến các phủ của họ hỏi thăm, khi rỗi việc triều chính thì thỉnh thoảng đến chơi. Cuối năm Minh Mạng thứ nhất (1820), làm lễ tế Chạp, các hoàng đệ là Định Viễn công Bính, Diên Khánh công Tấn và Điện Bàn công Phổ đi tế thay.
Năm thứ 2 (1821), có người thợ vẽ trốn vào phủ của Định Viễn công, người sở quản bắt đi làm việc, Định Viễn công Bính tranh giữ. Việc tâu lên vua, Định Viễn công sợ hãi liền vào tạ tội. Vua quở rằng: "Pháp luật là do các thánh và Hoàng khảo ta để lại để trị thiên hạ, trẫm phải cùng người trong nước đều theo. Em là người chí thân mà phạm pháp, nếu lại vị tình thì đối với triều đình thiên hạ làm sao? Nay tạm tha cho, về sau phải chừa".
Năm thứ 3 (1822), tháng 10 (âm lịch), Định Viễn công gọi thợ làm mũ vào phủ để chế mũ cho các con hát. Người thợ vì mưa lụt không đến, ông giận bắt đánh roi người đó. Thiêm sự Nội vụ là Hồ Hữu Thẩm đem việc đó tâu lên. Minh Mạng gọi Định Viễn công vào cung, quở mắng: "Em nay 26 tuổi không còn nhỏ bé nữa, sao không bỏ cái tính trẻ con để đến đức thành nhân, cứ cam tự xử ngu dại hết sức như thế. Em còn nhớ năm trước bắt con người ta làm con hát bị Hoàng khảo quở không? Ngày ấy anh van khóc hết sức xin cho, Hoàng khảo vẫn không vì tình riêng mà bỏ phép công, rốt cuộc em bị đánh roi. Nay em có tội, trong anh em có ai xin cho đâu. Ví thử có người xin, anh thương mà tha thì phép công làm sao? Há chẳng là làm nặng thêm tội cho anh ư? Nếu theo luật mà trị thì tình xương thịt làm sao? Há chẳng làm đau lòng cho anh ư? Ấy đều là anh chẳng dạy được em, trên đã đắc tội với Liệt thánh cùng Hoàng khảo, dưới lại đắc tội với thần dân, lưu trong sử sách, nghìn đời về sau sẽ cho anh là người thế nào? Vả anh có ngày nay là Hoàng khảo để lại nghiệp rất lớn, giao cho việc rất khó, cho nên sợ lo nơm nớp, không dám khinh thường chút nào, là vì nghĩ rằng làm vua, ngôi càng cao thì thân càng nguy vậy. Em thử nghĩ xem. Phàm hoàng thân quốc thích, đã không khó nhọc về chính sự, chỉ lấy thi thư làm vui, thì càng phải kính giữ phép tắc, chớ để mất tiếng hay. Nếu lại kiêu ngạo phóng túng, lấy thế lấn người, thì trăm họ hỏng hết, còn phú quý với ai? Huống chi em làm mũ con hát là việc vô ích mà bách người ta giữa lúc mưa lụt thì có nên không? Lỗi lần này anh tạm tha cho, nếu lại còn như thế thì tự có phép công, cuối cùng không thể lấy tình riêng anh em mà bỏ phép công của nước. Em nay huyết khí chưa định, nên chưa biết nghĩ thôi. Sau nên biết tự ức chế thì sẽ khỏi tội lỗi mà giữ được phú quý. Đến khi bốn năm mươi tuổi, nghĩ lại lời nói của anh, mới biết là thương nhau đến thế nào". Bộ Hình đem chuyện tấu lên vua Minh Mạng. Vua nói rằng: "Định Viễn công là bậc họ thân của nhà nước, đáng nên giữ mình ngay thẳng cẩn thận để giữ tiếng tốt, thế mà lại nhẹ dạ cả tin người bậy, lời xằng, cho làm môn thuộc, để nó cậy thế làm gian, cũng không phải là không có lỗi. Vậy phạt bổng thân công 6 tháng". Việc phát giác, Định Viễn công sợ hãi, thực tâu lên vua. Vua cho là đã biết tự thú thì được miễn tội, luật có nói rõ, vậy đặc cách tha cho, còn tên buôn lậu là Hàn Phương Di thì phải đày đi Hà Tiên.
Năm thứ 17 (1836), nhận dịp Định Viễn công lên thọ 40, vua sai lấy các vật phẩm trong kho Nội phủ tặng cho ông (gồm các thứ đồ bằng ngọc và thủy tinh; 1 hòm chè; 12 cuộn gấm hoa; 1 bộ tách uống rượu; 1 đôi giày đỏ thêu hình con mãng). Nhưng vua chợt nhớ ra hôm ấy là ngày giỗ ở miếu, mở lịch ra xem thì là ngày giỗ của Hiếu Ninh Hoàng hậu Trương Thị Thư (chánh cung của chúa Ninh Nguyễn Phúc Chú).
Thời Thiệu Trị
Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), vua xuống dụ miễn cho các thân công Kiến An, Định Viễn, Diên Khánh, Điện Bàn, Thường Tín, An Khánh và Từ Sơn, đều là hoàng thúc của vua, khỏi phải lạy ngày thường chầu, trừ khi triều hội và các điển lễ lớn.
Năm thứ 2 (1844), Định Viễn công theo vua ngự giá Bắc tuần, được sung chức Ngự tiền Thân thần thay vua nhận sắc của sứ nhà Thanh đem sang, khi vua hồi loan thì ông được thưởng rất hậu.
Năm thứ 4 (1844), tế trời đất ở đàn Nam Giao. Lễ xong, vua thưởng cho hoàng thân và các quan văn võ kim tiền, ngân tiền theo thứ bậc. Các hoàng thúc của vua đều được ban thêm một đồng kim tiền lớn hạng nhất có chữ Long vân khế hội.
Năm thứ 6 (1846), tháng 5 nhuận (âm lịch), Thái trưởng công chúa Ngọc Cửu mất. Chúa Ngọc Cửu là em cùng mẹ với Định Viễn công, tất cả công việc tang lễ vua Thiệu Trị đều giao cho ông lo liệu.
Thời Tự Đức
Năm Tự Đức thứ 16 (1863), ngày 3 tháng 7 (âm lịch), Định Viễn công Bính mất, thọ 67 tuổi. Tẩm mộ của quận vương Bính hiện tọa lạc tại phường Thủy Biều, thành phố Huế.
Hoàng thân giàu có
Sau khi được phong tước, Định Viễn Quận vương Bính đã ra lập phủ đệ tại thôn Tây Thượng (nay thuộc phường Phú Thượng, thành phố Huế). Ông năng nổ kinh doanh, liên tục thu lợi nhuận hậu hĩnh, vì thế mà trở nên giàu có đến mức vua anh Minh Mạng phải khen ngợi rằng: "Phú bất như Định Viễn".
Là người đam mê nghệ thuật hát bội, sẵn với nguồn tiền phong phú của mình, quận vương Bính còn cho lập nhiều đoàn hát phục vụ trong phủ riêng và cho dân chúng cùng xem.
- Tĩnh Cận, công tử thứ.
- Tĩnh Phường, công tử thứ. Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), được tặng làm Phụng quốc khanh
- Tĩnh Long, công tử thứ 9. Năm Tự Đức thứ 26 đều được ân phong làm Phụng quốc khanh.
- Tĩnh Quỵ, công tử thứ, con trai là Công tôn Hoài Trấp (1879 – 1928) xuất gia đi tu, tức thiền sư Viên Thành, là người sáng lập ra chùa Tra Am ở Huế.
Một người chị họ của sư Viên Thành là Công tôn nữ Thị Tư, pháp danh Thanh Trất, là người lập ra chùa Ba La Mật (nay thuộc huyện Phú Vang, Huế). Chồng của bà Thanh Trất là Nguyễn Khoa Luận, hiệu là Viên Giác Đại sư, đã xuất gia tu hành tại chùa này. Sư Viên Thành lúc mới xuất gia đã theo sư Viên Giác tu tại chùa này, rồi mới lập ra chùa Tra Am.
Chắt nội của quận vương Bính là Tôn Nữ Thị Trữ, lấy Trương Quang Nguyên, là chắt của đại thần Trương Đăng Quế.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Bính** (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong **Định Viễn Quận Vương** (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Ngọc Cửu** (chữ Hán: 阮福玉玖; 1802 – 1846), phong hiệu **An Lễ Công chúa** (安禮公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Chú** (chữ Hán: 阮福澍, 1697-1738) hay **Trú** hay **Thụ** trấn Hà Tiên, để giữ gìn và mở mang xứ ấy. Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12 (1737), triều đình định lại quan
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
nhỏ|271x271px|Nguyên soái hàng không [[Aleksandr Nikolayevich Yefimov|Aleksandr Yefimov]] nhỏ|308x308px|Lễ phục của nguyên soái pháo binh Grigoriy Odinzov (Bảo tàng lịch sử quân sự St. Petersburg. **Nguyên soái binh chủng** (, _Marshal roda voysk_), đôi khi
**Chánh nguyên soái binh chủng** (, _glavny marshal roda voysk_), đôi khi được gọi là **Nguyên soái Tư lệnh binh chủng** hay **Nguyên soái trưởng binh chủng**, là những cấp bậc tướng lĩnh cao cấp
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo** (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là **Nguyễn Phúc Miên An** (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng
**Nguyễn Phúc Anh** (chữ Hán: 阮福渶, 1601 - 1635), còn gọi là **Tôn Thất Anh**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Lúc sinh thời ông
**Nguyễn Văn Bình** (sinh ngày 4 tháng 3 năm 1961) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa XII, Trưởng ban Kinh tế
**Nguyễn Thanh Bình** (4 tháng 5 năm 1918 - 19 tháng 3 năm 2008) là một chính trị gia Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Bí
**Nguyễn Phúc Đài** (chữ Hán: 阮福旲; 5 tháng 10 năm 1795 – 14 tháng 11 năm 1849), tước phong **Kiến An vương** (建安王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Trung** (chữ Hán: 阮福忠), sau gọi là **Tôn Thất Trung**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng vì vụ bê bối
**Nguyễn Phúc Tấn** (chữ Hán: 阮福晉; 21 tháng 3 năm 1799 – 17 tháng 7 năm 1854), còn có huý là **Thản**, tước phong **Diên Khánh Vương** (延慶王), là một hoàng tử con vua Gia
**Nguyễn Phước Mỹ Đường** (阮福美堂, 1798 - 1849), còn có tên là **Nguyễn Phước Đán** (阮福旦) là hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, là đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long.
**Nguyễn Phúc Gia Thụy** (chữ Hán: 阮福嘉瑞; 25 tháng 11 năm 1825 – 3 tháng 8 năm 1860), phong hiệu **Bình Xuân Công chúa** (平春公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Phúc Huy** (chữ Hán: 阮福福徽; 1846 – 1870), phong hiệu **Thuận Mỹ Công chúa** (順美公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Quang** (chữ Hán: 阮福㫕, 10 tháng 9 năm 1811 – 29 tháng 6 năm 1845), tước phong **An Khánh vương** (安慶王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Ngọc Anh** (chữ Hán: 阮福玉瑛; 1790 – 1850), phong hiệu **Bảo Lộc Công chúa** (保祿公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyên Phúc** là một xã thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam. ## Địa lý Xã Nguyên Phúc có vị trí địa lý: *Phía bắc giáp xã Tân Tú và xã Sỹ Bình
:_Bài này viết về công chúa con vua Gia Long, về công nữ có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến** (chữ Hán: 阮福玉玔; 20 tháng 10 năm 1792 – 1851),
**Nguyễn Phúc Nhàn Gia** (chữ Hán: 阮福閒家; ? – 1925), phong hiệu **Phúc Lâm Công chúa** (福林公主), là một công chúa con vua Dục Đức nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Phổ** (chữ Hán: 阮福普; 3 tháng 5 năm 1799 – 11 tháng 9 năm 1860), tước phong **Điện Bàn Công** (奠盤公), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
:_Bài này viết về hoàng tử con vua Gia Long, về công tử có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Mão** (chữ Hán: 阮福昴; 25 tháng 10 năm 1813 – 18 tháng
**Nguyễn Phúc An Nhàn** (chữ Hán: 阮福安嫻; 1836 – 7 tháng 7 năm 1854), phong hiệu **Xuân Vân Công chúa** (春雲公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Phúc Ngọc Quỳnh** (chữ Hán: 阮福玉瓊; 1788 – 1849), phong hiệu **Bình Hưng Công chúa** (平興公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Ngọc Cầu** (chữ Hán: 阮福玉球; 1734 – 8 tháng 7 năm 1804), là một Công nữ, đồng thời là một cung tần của Chúa Nguyễn Phúc Khoát trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Điền** (chữ Hán: 阮福沺; 14 tháng 4 năm 1700 – 23 tháng 7 năm 1739), tước phong **Dận Quốc công** (胤國公), là một công tử con của chúa Nguyễn Phúc Chu trong lịch
**Nguyễn Phúc Miên Nghi** (chữ Hán: 阮福綿宜; 30 tháng 12 năm 1810 – 12 tháng 8 năm 1874), là một hoàng tử của nhà Nguyễn. Ông nổi tiếng là người có tài thơ ca và
**Nguyễn Phúc Hồng Hưu** (chữ Hán: 阮福洪休; 2 tháng 10 năm 1835 – 9 tháng 5 năm 1885), còn có tên khác là **Thuyên** (佺). Lúc còn nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, biết lĩnh
**Nguyễn Phúc Hồng Cai** (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu **Kiên Thái vương** (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Nhàn Thục** (chữ Hán: 阮福嫻淑; 15 tháng 6 năm 1828 – 2 tháng 12 năm 1864), phong hiệu **Gia Lạc Công chúa** (嘉樂公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Thục Tĩnh** (chữ Hán: 阮福淑靜; 1 tháng 10 năm 1825 – 13 tháng 4 năm 1856), phong hiệu **Xuân An Công chúa** (春安公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Ngọc Châu** (chữ Hán: 阮福玉珠; 1782 – 1847), phong hiệu **Bình Thái Công chúa** (平泰公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Nguyễn Phúc Miên Dần** (chữ Hán: 阮福綿寅, 18 tháng 4 năm 1829 – 9 tháng 3 năm 1885), tước phong **Trấn Tĩnh Quận công** (鎮靖郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
**Nguyễn Phúc Nhàn Tĩnh** (chữ Hán: 阮福嫻靜; 3 tháng 3 năm 1832 – 24 tháng 3 năm 1863), phong hiệu **Thuận Hòa Công chúa** (順和公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn