✨Nguyễn Phúc Miên Định

Nguyễn Phúc Miên Định

Thọ Xuân Vương (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự Minh Tỉnh (明靜), hiệu Đông Trì (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có địa vị cao quý suốt thời các Hoàng đế: Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Hàm Nghi và Đồng Khánh với vai trò làm Kiêm nhiếp Tôn Nhân Phủ.

Vương nổi tiếng với tài văn thơ và một trong những trung thần bậc nhất của nhà Nguyễn, nổi tiếng về các áng thơ, văn, đối khẩu và là thành viên của Mạc Vân thi xã .

Tiểu sử

Tuổi trẻ

Thọ Xuân Vương sinh ra vào ngày 5 tháng 8, năm Gia Long thứ 9 (1810), là con trai thứ ba của Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng, mẹ là Gia Phi Phạm Thị Tuyết (范氏雪). Ban đầu, ông được Gia Long hoàng đế ban cho tên Nguyễn Phúc Yến (阮福宴).

Năm Nhâm Thân (1812), Gia Phi mất, Vương vừa 3 tuổi, được bà nội là Thuận Thiên Cao Hoàng hậu đem vào nuôi trong cung. Thuở bé, Miên Định yếu đuối nhưng thông minh, được học ở chái tây Điện Cần Chánh. Vua Gia Long thường thấy ông mang hòm sách đi nghe giảng, rất ngợi khen. Lúc lớn lên, Miên Định có dáng người to lớn, tư chất hơn người.

Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), có Ngự chế Kim sách về Đế Hệ Thi, nên ông được ban cho tên Nguyễn Phúc Miên Định (阮福綿定).

Thời Minh Mạng

Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Vương cùng Hoàng trưởng tử (tức Hiến Tổ Chương Hoàng đế Thiệu Trị) được lệnh lập phủ riêng, Vương được lệnh lập phủ ở phía trái kinh thành ( hiện nay phủ đệ (sau này cải thành phủ thờ) của Vương ở số 209 đường Chi Lăng, phường Phú Cát, thành phố Huế) để tiện việc phụng hầu. Vương càng tinh thông mọi sách, nổi danh về thơ, càng giỏi về ứng chế.

Mùa xuân năm Minh Mạng thứ 11 (1830), sắc phong làm Thọ Xuân công (壽春公). Mùa xuân năm thứ 16 (1835), Vương và Hoàng trưởng tử vào hầu ở Điện Đông Các, Vua Minh Mạng ban cho mỗi người một lư hương và một cây đàn quí mà dụ rằng: "Lư là để truyền hương thơm, đàn là để vang tiếng. Đây là lúc các con cần có hương danh truyền khắp nơi, phải gắng sức lên". Nùa hạ năm đó, Vua Minh Mạng đi Quảng Trị, lệnh cho Vương lưu giữ Kinh đô và dụ rằng: "Kinh đô là nơi căn bản, lệnh cho con lưu giữ. Mỗi ngày phải đến Điện Cần Chánh để cùng các quan bàn bạc". Lại cấp cho một Nha đồ ky để nghe những chuyện gì nghe được trong cung mà tâu lên.

Mùa thu cùng năm, bắt đầu đặt các quan chức tại Tôn Nhân Phủ. Đế lệnh cho Vương kiêm nhiếp Tôn Nhân Phủ Hữu Tôn Chính, ghi tên tất cả bà con xa gần để cai quản. Vương liền xin lập điều lệ và dâng sớ cử Tôn Thất Lương, là quan thanh bạch, làm tư vụ. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), Đế lệnh cho Vương cùng các quan bộ Lễ tiếp tục bàn bạc chương trình để thi hành ở Tôn Nhân Phủ.

Mùa đông năm thứ 21 (1840), gặp lúc Vua Minh Mạng không được khỏe, khi xét các án tử hình, Đế lệnh cho Vương, Hoàng tử trưởng đọc lại. Thấy việc trọng đại, Vương nhường cho Hoàng tử trưởng quyết đoán. Vua Minh Mạng ngợi khen rồi ban cho Diễm Lộc viên (豔祿園) để nghỉ ngơi và đọc sách.

Thời Thiệu Trị

Thiệu Trị nguyên niên (1841), khi làm lễ Ninh Lăng, Vương theo hầu, tất cả việc lễ lược cho đến việc đề chủ, Vương đều được sung vào giúp đỡ.

Mùa xuân năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Đế ra Bắc làm lễ Bang giao, Vương được phong làm Ngự tiền Thân thần. Ngày tuyên phong, sứ nhà Thanh là Bửu Thanh cưỡi kiệu vào thẳng cửa Chu Tước (朱雀門), quan đón tiếp không thể can ngăn. Vương nghiêm nét mặt quát mắng. Sứ Thanh liền xuống ngựa, thong thả mà đi. Khi xong lễ Vua Thiệu Trị ngợi khen. Lúc trở về, Vua Thiệu Trị thưởng cho một viên ngọc trắng để đeo, có khắc 4 chữ "Đặc nghị quyền hưu" (nghĩa là đặc biệt mãi yêu thương).

Mùa hạ năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), Đế lệnh cho Vương làm Tổng ly coi sóc sửa chữa Đại Nam hội điển. Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), Vương dâng sớ xin theo lệ, thôi việc ở Tôn Nhân Phủ để nhường chức vụ cho các Hoàng tử khác, Vua Thiệu Trị ưu ái không chấp nhận.

Thời Tự Đức

Năm Tự Đức thứ 11 (1858), có biến ở Nam kỳ, Vương được trù liệu việc biên giới, thấy hao phí việc quân quá nhiều, Vương dâng sớ xin bớt lương bổng để giúp quân, Hoàng Đế không chấp nhận.

Mùa xuân năm thứ 18 (1865), vua Tự Đức cho rằng Vương tuổi cao, đức trọng, gặp triều yến đều được ban cấp, hỏi han, cho ngồi tại chỗ hoặc chấp tay ở trán, để tỏ chí tình. Rồi phụng thư sắc cho phép khi đến triều. Để tỏ lòng ưu ái của vua đối với Vương, năm đó Vương được cải làm Tả Tôn Chính (左尊正) ở Tôn Nhân Phủ, Vương bái mạng. Vua Tự Đức ban: "Người lớn tuổi chân thật chẳng có mấy, hiến khanh gắng sức để giữ gìn khuôn phép thay mệnh của trẫm". Vương bèn mời trong phiên hệ những người thận trọng, trung hậu để sung làm Tư Giáo trông coi mọi việc.

Mùa hạ năm thứ 27 (1874), Vương được tấn phong Thọ Xuân quận vương (壽春郡王), cùng sắc phong với Ninh Thuận Quận Vương Nguyễn Phúc Miên Nghi. Khi đó, Vương và Ninh Thuận Quận Vương dâng sớ khẩn khoản từ chối, lấy cớ: "Bản triều từ xưa đến nay, những người thân thuộc chưa hề được phong Vương, huống gì vùng biên cương rối ren, tâm Vua chẳng an, đội ân được dự vào việc nước nhưng chẳng giúp ích được chút nào, cảm thấy không công lao mà hưởng được lộc lớn, thật chẳng an tâm, chứ chẳng phải nói bậy mà từ chối".

Vua Tự Đức ban rằng: "Bản triều vốn định không phong tước Vương là vì không có người xứng đáng, chưa có lúc thích hợp, nên còn chờ đó thôi. Nay hai chú chớ có từ chối để an ủi lòng tôn thân, kính lão của trẫm". Vương mới nhận phong.

Mùa xuân năm Tự Đức thứ 31 (1878), Vương được sắc phong Thọ Xuân vương (壽春王). Mùa thu năm Tự Đức thứ 32 (1879), Vương mừng thọ 70 tuổi, Vua Tự Đức xuất kho ban các phẩm vật, cùng làm bài tự bài ca để ban cho.

Cuối đời

Mùa hạ năm Tự Đức 36 (1883), vua Tự Đức băng hà, di chiếu cho vua Dục Đức nối ngôi, di chiếu ban khiến ông và Tuy Lý Vương Miên Trinh là hai người thân mà tuổi và đức hạnh hơn người, phàm thấy điều gì sai trái thì nên sửa cho đúng, để làm tốt.

Mùa hạ Hàm Nghi nguyên niên, kinh thành có biến, Xuất Đế rời kinh, nước không có chủ, phụng chỉ Lưỡng Cung mà ông ra nhiếp chính, coi việc nước. Ông thấy nhân tâm hơi định, tâu xin cho các Vương như: Tuy Lý Vương Miên Trinh, Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện, trước kia bị lỗi, đưa đi an trí ở các tỉnh, được trở về Kinh. Mùa thu năm ấy, vua Đồng Khánh tức vị, ông xin thôi nhiếp chính, nhưng vẫn giữ việc ở Tôn Nhân Phủ. Vua Đồng Khánh thấy ông phẩm trật quá cao, không thể phong tước thêm nên đặc biệt ban cho 200 lượng bạc để giúp việc sinh sống.

Mùa đông Đồng Khánh nguyên niên (1886), Thọ Xuân Vương mất, hưởng thọ 77 tuổi.

Vua Đồng Khánh nghe tin rất thương tiếc, cho nghỉ triều 3 ngày, lệnh cho các hoàng thân đem rượu đến cấp, ban cho tên thụy là Đoan Kháp (端恪).

Vào ngày an táng, vua Đồng Khánh sai quan đến cúng, lại phụng mệnh Lưỡng Cung ban cho một đàn cúng.

Vương an táng tại vùng mộ thuộc Dương Xuân, (nay là kiệt 106 đường Minh Mạng, Thành phố Huế),

Nhà thờ ở Đông Trì, (nay là đường Chi Lăng, phường Phú Hiệp, Thành phố Huế) do nhà cũ sửa sang lại.

Gia đình

Theo gia phả thì không ghi ông có tất cả bao nhiêu bà vợ liệt kê được 54 bà hạ sinh ra con. Ông có 78 con trai, 66 con gái.

Con trưởng là Nguyễn Phúc Hồng Tuấn (洪浚), được ân phong Mộng Ân Đình hầu (蒙恩亭侯). Con thứ 7 là Nguyễn Phúc Hồng Các (阮福洪洁), tập phong Thọ Xuân quận công (寿春郡公). Con thứ 42 Nguyễn Phúc Hồng Du được em trai ông là Hoằng Hóa quận vương Miên Triện nhận làm con nuôi nối vị đổi tên là Hồng Hậu, được phong Hoằng Hóa quận công.

Nguyễn Phúc Ưng Hào (阮福膺濠, 5/7/1864-4/12/1922), con của Hồng Các, tập phong Thọ Xuân hương công (壽春鄉公), rồi nhờ tước mà kiêm nhiếp Tôn Nhân Phủ, Hữu Tôn Khanh. Năm Thành Thái thứ 14, được cải thành Quang Lộc Tự Khanh.

Con trai

Sử sách chép được 70 người (tảo thương 6 người), trong đó Nguyễn Phúc Hồng Cẩn là con trai thứ 34 Nguyễn Phúc Hồng Tuấn (24/2/1827-3/7/1863) Nguyễn Phúc Hồng Uyên Nguyễn Phúc Hồng Thiêm (30/8/1831-27/9/1879) Nguyễn Phúc Hồng Kiệt (4/6/1833-18/7/1834) Nguyễn Phúc Hồng Vĩ (2/12/1833-12/2/1843) Nguyễn Phúc Hồng Khắc (23/3/1834-17/4/1863) Nguyễn Phúc Hồng Các (18/8/1834-13/6/1880) Nguyễn Phúc Hồng Nhưng (21/8/1834-17/3/1837) Nguyễn Phúc Hồng Đàm (24/1/1835-26/5/1885) Nguyễn Phúc Hồng Luật (4/11/1835-3/5/1836) Nguyễn Phúc Hồng Bằng (27/7/1836-23/12/1836) Nguyễn Phúc Hồng Triêm (5/8/1837-27/3/1903) Nguyễn Phúc Hồng Trí (15/1/1837-23/11/1837) Nguyễn Phúc Hồng Thắng (14/4/1838-17/6/1838) Nguyễn Phúc Hồng Hàm (25/1/1839-18/2/1891) Nguyễn Phúc Hồng Giá (25/2/1839-1/5/1839) Nguyễn Phúc Hồng Tuy (27/2/1839-5/4/1910) Nguyễn Phúc Hồng Nhuận Nguyễn Phúc Hồng Suất (29/5/1839-25/4/1843) Nguyễn Phúc Hồng Đằng (2/4/1840-22/3/1902) Nguyễn Phúc Hồng Phương (15/5/1840-5/2/1890) Nguyễn Phúc Hồng Đậu (21/11/1840-16/11/1883) Nguyễn Phúc Hồng Chức (21/1/1841-18/11/1842) Nguyễn Phúc Hồng Hàn (14/5/1841-18/11/1842) Nguyễn Phúc Hồng Dõng (1841/8/3-1889) Nguyễn Phúc Hồng Tốn (8/3/1842-12/3/1845) Nguyễn Phúc Hồng Tượng (1842/8/4-9/5/1845) Nguyễn Phúc Hồng Thoại (19/8/1842-8/7/1843) Nguyễn Phúc Hồng Tiển (9/4/1844-22/5/1853) Nguyễn Phúc Hồng Tịnh (18/4/1844-8/1/1887) Nguyễn Phúc Hồng Đằng (18/4/1844-19/2/1869) Nguyễn Phúc Hồng Tráng (7/1/1845-11/3/1887) Nguyễn Phúc Hồng Cẩn (6/3/1845-23/11/1922) Nguyễn Phúc Hồng Tân (16/7/1845-8/6/1916) Nguyễn Phúc Hồng Hàn (12/9/1846-14/6/1853) Nguyễn Phúc Hồng Tương (18/2/1847-8/6/1911) Nguyễn Phúc Hồng Diễn (4/10/1847-3/4/1853) Nguyễn Phúc Hồng Chuẩn (27/10/1847-30/6/1853) Nguyễn Phúc Hồng Luyện (30/10/1847-11/7/1849) Nguyễn Phúc Hồng Tuấn (3/12/1847-27/2/1849) Nguyễn Phúc Hồng Du (17/4/1848-24/8/?) Nguyễn Phúc Hồng Hãn (25/5/1848-12/8/1856) Nguyễn Phúc Hồng Lân (1/8/1849-?) Nguyễn Phúc Hồng Chức (28/8/1849-3/8/1856) Nguyễn Phúc Hồng Oánh (22/2/1850-19/5/1853) Nguyễn Phúc Hồng Chiên (4/4/1850-11/6/1853) Nguyễn Phúc Hồng Pháp (7/11/1850-1/3/1912) Nguyễn Phúc Hồng Quyên (21/6/1851-8/11/1884) Nguyễn Phúc Hồng Thứ (27/7/1854-29/8/1854) Nguyễn Phúc Hồng Hiển (25/11/1855-30/10/1924) Nguyễn Phúc Hồng Tầm (12/12/1855-21/8/1885) Nguyễn Phúc Hồng Quì (19/5/1856-2/4/1901) Nguyễn Phúc Hồng Đồ (14/10/1856-9/4/1859) Nguyễn Phúc Hồng Giáo (26/5/1858-3/8/1858) Nguyễn Phúc Hồng Lục (24/4/1859-24/4/1865) Nguyễn Phúc Hồng Quáng (17/7/1859-19/11/1864) Nguyễn Phúc Hồng Cừ (13/12/1859-19/12/1884) Nguyễn Phúc Hồng Ấp (20/6/1860-1/7/1863) Nguyễn Phúc Hồng Cúc (19/10/1860-4/8/1914) Nguyễn Phúc Hồng Nông (12/12/1860-6/11/?) Nguyễn Phúc Hồng Biền (13/2/1862-5/7/1862) Nguyễn Phúc Hồng Thục Nguyễn Phúc Hồng Bỗng (13/2/1864-14/8/1905) Nguyễn Phúc Hồng Kính (2/8/1864-3/8/1865) Nguyễn Phúc Hồng Đạm Nguyễn Phúc Hồng Đôn (23/2/1867-29/5/1867) Nguyễn Phúc Hồng Vân (19/3/1869-16/8/1914) Nguyễn Phúc Hồng Kỳ (29/8/1869-4/6/1921) Nguyễn Phúc Hồng Tuyên (3/3/1873-12/2/?) Nguyễn Phúc Hồng Ngoạn (29/2/1876-1922)

Con gái

Sử sách chép được 55 người (tảo thương 11 người), trong đó Nguyễn Phúc Tuần Du là con gái út Nguyễn Phúc Ngọc Giáng (6/2/1828-1922) Nguyễn Phúc Doãn Cung (6/11/1829-1922) Nguyễn Phúc Ngọc Thoại (30/3/1830-1922) Nguyễn Phúc Bích Diêu (12/8/1830-?) Nguyễn Phúc Chức Túy (3/6/1833-10/11/1883) Nguyễn Phúc Diệm Chất (18/8/1833-1/11/1833) Nguyễn Phúc Trinh Tư (27/9/1834-13/8/1837) Nguyễn Phúc Mỹ Triệu (16/1/1835-5/3/1835) Nguyễn Phúc Điềm Điềm (1/8/1835-10/11/1835) Nguyễn Phúc Thanh Bân (28/8/1835-12/1/1836) Nguyễn Phúc Phấn Hượt (12/11/1837-7/7/1902) Nguyễn Phúc Cẩm Tâm (4/18/1838-30/5/1900) Nguyễn Phúc Tiêm Huy (22/5/1838-3/12/1870) Nguyễn Phúc Thu Ý (12/7/1838-1/9/1869) Nguyễn Phúc Thiều Tú (6/10/1838-21/8/1895) Nguyễn Phúc Tịnh Quyên (17/1/1839-23/3/1839) Nguyễn Phúc Mỹ Hạp (19/1/1839-14/3/1842) Nguyễn Phúc Diệm Trang (18/5/1839-14/8/1839) Nguyễn Phúc Uyên Du (20/1/1841-23/6/1843) Nguyễn Phúc Diệm Cầu (3/8/1841-22/3/1842) Nguyễn Phúc Thu Vân (10/1/1842-2/4/1842) Nguyễn Phúc Di Tình (24/7/1842-8/7/1901) Nguyễn Phúc Thoại Quế (30/7/1842-3/10/1842) Nguyễn Phúc Túy Tiếu (1/9/1842-27/9/1864) Nguyễn Phúc Diễm Lê (6/1/1843-3/4/1843) Nguyễn Phúc Tố Phương (21/1/1843-27/7/1845) Nguyễn Phúc Duyên Chuân (8/2/1843-12/5/1843) Nguyễn Phúc Liễu Mỹ (16/2/1843-19/4/1902) Nguyễn Phúc Lệ Quyên (28/2/1843-11/4/1845) Nguyễn Phúc Tuấn Mỹ (28/4/1844-22/2/1888) Nguyễn Phúc Hạ Vân (5/5/1844-?) Nguyễn Phúc Giã Âm (13/8/1846-21/10/1875) Nguyễn Phúc Mai Trang (3/12/1846-18/10/1931) Nguyễn Phúc Nguyệt Quyên (18/2/1847-28/1/1849) Nguyễn Phúc Nguyệt Đoàn (3/6/1847-1/8/1885) Nguyễn Phúc Cúc Nhụy (4/8/1847-26/9/1895) Nguyễn Phúc Ngâm Trâm (23/11/1847-1/9/1855) Nguyễn Phúc Chức Cẫm (21/11/1848-13/3/1898) Nguyễn Phúc Xuân Thiều (14/1/1849-15/6/1869) Nguyễn Phúc Thu Huy (1850/9/21/-13/6/1853) Nguyễn Phúc Thu Đào (22/8/1851-16/2/1874) Nguyễn Phúc Tâm Di (15/10/1853-16/10/1857) Nguyễn Phúc Phụng Tiêu (12/1/1855-28/5/1855) Nguyễn Phúc Thể Lục (18/5/1857-3/9/1860) Nguyễn Phúc Thể Cầm Nguyễn Phúc Đạm Như (19/10/1857-8/10/1909) Nguyễn Phúc Xuân Hỹ (14/12/1859-12/1/1889) Nguyễn Phúc Diệu Đào (25/10/1864-?) Nguyễn Phúc Bân Mỹ (24/3/1865-25/6/1890) Nguyễn Phúc Tiểu Quế (5/4/1865-25/4/1913) Nguyễn Phúc Tường Vi (8/1/1866-7/7/1866) Nguyễn Phúc Diệu Anh (23/6/1867-29/1/1868) Nguyễn Phúc Tự Học (11/2/1869-25/11/1922) Nguyễn Phúc Phương Di (12/8/1876-?) *Nguyễn Phúc Tuần Du (19/2/1880-3/7/1904)

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
**Nguyễn Phúc Miên Hoành** (chữ Hán: 阮福绵宏; 12 tháng 7 năm 1811 – 23 tháng 11 năm 1835), trước có tên là **Nguyễn Phúc Thự** (阮福曙). Ông là người con thứ hai của bà Hiền
**Nguyễn Phúc Miên Nghi** (chữ Hán: 阮福綿宜; 30 tháng 12 năm 1810 – 12 tháng 8 năm 1874), là một hoàng tử của nhà Nguyễn. Ông nổi tiếng là người có tài thơ ca và
**Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo** (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là **Nguyễn Phúc Miên An** (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng
**Nguyễn Phúc Miên Trữ** (chữ Hán: 阮福綿宁; 11 tháng 7 năm 1820 – 20 tháng 8 năm 1890), tước phong **Tuân Quốc công** (遵國公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Miêu** (chữ Hán: 阮福綿𡩈; 3 tháng 1 năm 1832 – 25 tháng 5 năm 1865), tước phong **Trấn Định Quận công** (鎮定郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Mật** (chữ Hán: 阮福綿宓, 17 tháng 8 năm 1825 – 23 tháng 5 năm 1847), hiệu là **Vân Đình** (芸亭), tước phong **Quảng Ninh Quận vương** (廣寧郡王), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Miên Lâm** (chữ Hán: 阮福綿㝝; 20 tháng 1 năm 1832 – 28 tháng 12 năm 1897), tước phong **Hoài Đức Quận vương** (懷德郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Thần** (chữ Hán: 阮福綿宸; 16 tháng 2 năm 1817 – 7 tháng 10 năm 1878), tước phong **Nghi Hòa Quận công** (宜禾郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Chí** (hoặc **Trí**) (chữ Hán: 阮福綿寘; 20 tháng 9 năm 1836 – 18 tháng 12 năm 1888), tước phong **Vĩnh Lộc Quận công** (永祿郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng
**Nguyễn Phúc Miên Phú** (chữ Hán: 阮福綿富; 28 tháng 2 năm 1817 – 15 tháng 4 năm 1885), tước phong **Phù Mỹ Quận công** (符美郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Tuấn** (chữ Hán: 阮福綿寯; 12 tháng 6 năm 1827 – 22 tháng 6 năm 1907), tự là **Dương Hiền** (陽賢), **Ngạn Thúc** (彦叔), **Ngạn Chi** (彦之), **Trọng Diên** (仲延), **Nhã Trang** (雅莊),
**Nguyễn Phúc Miên Lịch** (chữ Hán: 阮福綿𡫯; 13 tháng 5 năm 1841 – 5 tháng 11 năm 1919), tước phong **An Thành vương** (安城王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Quan** (chữ Hán: 阮福綿官; 21 tháng 5 năm 1827 – 3 tháng 2 năm 1847), tự là **Tắc Tư** (則思), tước phong **Kiến Tường công** (建祥公), là một hoàng tử con vua
**Nguyễn Phúc Miên Thanh** (chữ Hán: 阮福綿寈; 18 tháng 9 năm 1830 – 6 tháng 2 năm 1877), tự là **Giản Trọng** (柬仲), hiệu là **Quân Đình** (筠亭), tước phong **Trấn Biên Quận công** (鎮邊郡公),
**Nguyễn Phúc Miên Tống** (chữ Hán: 阮福綿宋; 17 tháng 3 năm 1822 – 2 tháng 3 năm 1858), tước phong **Hà Thanh Quận công** (河清郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Cung** (chữ Hán: 阮福綿宮; 17 tháng 1 năm 1824 – 2 tháng 10 năm 1849), tước phong **Sơn Định Quận công** (山定郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Dần** (chữ Hán: 阮福綿寅, 18 tháng 4 năm 1829 – 9 tháng 3 năm 1885), tước phong **Trấn Tĩnh Quận công** (鎮靖郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Cư** (chữ Hán: 阮福綿𡨢; 16 tháng 10 năm 1829 – 6 tháng 4 năm 1854), tự là **Trọng Trữ** (仲貯), tước phong **Quảng Trạch Quận công** (廣澤郡公), là một hoàng tử con
**Nguyễn Phúc Miên Lương** (chữ Hán: 阮福綿㝗; 27 tháng 2 năm 1826 – 24 tháng 8 năm 1863), tước phong **Sơn Tĩnh Quận công** (山靜郡公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Tể** (chữ Hán: 阮福綿宰; 21 tháng 10 năm 1822 – 5 tháng 12 năm 1844), tự là **Trọng Chân** (仲真), hiệu **Tùng Thự** (松墅), tước phong **Nghĩa Quốc công** (義國公), là một
**Nguyễn Phúc Miên Sạ** (chữ Hán: 阮福綿宱; 13 tháng 3 năm 1830 – 13 tháng 1 năm 1902), tước phong **Tĩnh Gia công** (靜嘉公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Miên Ký** (chữ Hán: 阮福綿寄; 5 tháng 4 năm 1838 – 15 tháng 12 năm 1881), tước phong **Cẩm Xuyên Quận vương** (錦川郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Miên Ôn** (còn có âm đọc là **Ổn**) (chữ Hán: 阮福綿㝧; 15 tháng 3 năm 1833 – 1 tháng 2 năm 1895), tước phong **Nam Sách Quận công** (南策郡公), là một hoàng tử
**Nguyễn Phúc Miên Thân** (chữ Hán: 阮福綿寴; 20 tháng 7 năm 1837 – 17 tháng 8 năm 1875), tự là **Trọng Chí**, hiệu là **Trúc Viên**, tước phong **Phù Cát Quận công** (符吉郡公), là một
**Nguyễn Phúc Miên Túc** (còn có âm đọc là **Tú**) (chữ Hán: 阮福綿宿; 26 tháng 2 năm 1827 - 1 tháng 1 năm 1854), tước phong **Ba Xuyên Quận công** (巴川郡公), là một hoàng tử
**Nguyễn Phúc Miên Ngụ** (chữ Hán: 阮福綿寓; 29 tháng 4 năm 1833 – 20 tháng 3 năm 1847), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Nguyễn Phúc Lương Đức** (chữ Hán: 阮福良德; 26 tháng 7 năm 1817 – 13 tháng 5 năm 1891), trước có tên là **Tam Xuân** (三春), phong hiệu **An Thường Công chúa** (安常公主), là một công
**Nguyễn Phúc Bửu Thạch** (Hán Nôm: **阮福寶石**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông là cháu nội của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (阮福洪依), con của Kiến Thụy quận
Hoàng thân **Nguyễn Phúc Bửu Lộc** (sinh ngày 22 tháng 8 năm 1914 tại Huế, mất ngày 27 tháng 2 năm 1990 tại Paris) là Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Phúc Chú** (chữ Hán: 阮福澍, 1697-1738) hay **Trú** hay **Thụ** trấn Hà Tiên, để giữ gìn và mở mang xứ ấy. Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12 (1737), triều đình định lại quan
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Đài** (chữ Hán: 阮福旲; 5 tháng 10 năm 1795 – 14 tháng 11 năm 1849), tước phong **Kiến An vương** (建安王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Đinh Đạo** (chữ Hán: 丁導, 1845 - 1866), bản danh **Nguyễn Phúc Ưng Phúc** (阮福膺福), là một hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, mục tiêu tôn phù của Loạn Chày Vôi năm
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Phúc Hồng Cai** (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu **Kiên Thái vương** (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Bính** (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong **Định Viễn Quận Vương** (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong