✨Tuy Lý vương

Tuy Lý vương

Tuy Lý Vương (chữ Hán: 綏理王, 3 tháng 2 năm 1820 - 18 tháng 11 năm 1897), biểu tự Khôn Chương (坤章) và Quý Trọng (季仲), hiệu Tĩnh Phố (靜圃) và Vỹ Dã (葦野); là một hoàng tử nhà Nguyễn.

Ông nổi tiếng là thành viên Mạc Vân thi xã và là một trong là là một trong Nguyễn triều Tam Đường (阮朝三堂).

Tiểu sử

Phủ đệ của Tuy Lý vương ở Vỹ Dạ, Huế Tuy Lý vương trước có tên là Nguyễn Phúc Thư (阮福書), sau được ban tên Nguyễn Phúc Miên Trinh (阮福綿寊), sinh ngày 19 tháng 12 năm Kỷ Mão (3 tháng 2 năm 1820) tại viện sau Thanh Hòa điện. Ông là con trai thứ 11 của Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng, mẹ ông là Tiệp dư, người An Triền (Phong Điền, Thừa Thiên). Vốn thông minh, hiếu học, tính nết đôn hậu lại được mẹ và thầy Thân Văn Quyền dạy dỗ chu đáo, nên ông sớm nổi tiếng là người uyên bác, sáng tác thơ giỏi và thạo cả nghề thuốc.

Năm 1839, Miên Trinh được phong là Tuy Quốc công (綏國公), cho lập phủ riêng gọi là Tĩnh Phố, ở bên cạnh Ký Thưởng viên của người anh khác mẹ là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Năm Tự Đức thứ 4 (1851), Hoàng đế bắt đầu lập Tôn Học đường (尊學堂), cử ông giữ chức Đổng sự.

Năm 1854, ông được phong Tuy Lý công (綏理公).

Năm 1865, Tự Đức chuẩn cho ông kiêm nhiếp Tôn Nhân Phủ Hữu Tôn Nhân, nhưng vì mẹ mất, ông xin từ để cư tang, đến năm sau mới tựu chức, rồi thăng Tông Nhân Phủ Tả Tông Nhân (1871). Năm 1878, ông được phong làm Tuy Lý Quận vương (綏理郡王), rồi thăng làm Tông Nhân Phủ Hữu Tông Nhân (1882).

Năm Quý Mùi (1883), vua Tự Đức lâm bệnh nặng, Miên Trinh có vào Y viện hầu thuốc, nhưng không công hiệu, không lâu sau thì vua Tự Đức giá băng. Ông được tin cẩn và được vua Tự Đức di chiếu cùng Thọ Xuân Vương giúp đỡ việc triều chính, trong thời gian này ông được phong tước Tuy Lý Vương (綏理王). Sách Vua Minh Mạng với Thái y viện kể: :''Bấy giờ, trong Hội đồng phụ chính, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm nhiều quyền hành, lại đứng đầu phái chủ chiến, tích cực chống thực dân Pháp. Họ thực hiện các cuộc phế lập để chọn ông vua đứng về phe mình. Trong cuộc phế lập ấy, Lãng Quốc công Hồng Dật lên ngôi, cải nguyên Hiệp Hòa, và Miên Trinh được tấn phong Tuy Lý Vương... :Tuy có lòng yêu nước thương dân, nhưng vì chịu sự chi phối của hệ ý thức phong kiến (lấy quyền lợi triều đình, hoàng tộc làm đầu) nên Miên Trinh ngấm ngầm chống đối Tường và Thuyết. Rồi Hồng Sâm, con trai của Miên Trinh, mưu cùng vua Hiệp Hòa, nhờ tay thực dân Pháp để trừ hai người ấy. Việc bại lộ, cả vua và Hồng Sâm đều bị giết. :Miên Trinh sợ hãi, lánh đến sứ quán Thương Bạc xin tá túc, nhưng Tham biện Nguyễn Cư không cho. Cùng đường, ông đem cả gia đình xuống Thuận An xin tị nạn trên tàu Pháp do Picard Destelan chỉ huy.

Mười ngày sau (30 tháng 11 năm 1883), mặc dù được Khâm sứ De Champeaux che chở, nhưng vì Tôn Thất Thuyết đòi, nên Pháp trao trả ông cho triều đình Huế. Ông bị Tôn Thất Thuyết cách hết chức, giáng xuống tước Tuy Lý Huyện công (綏理縣公), đày vào Quảng Ngãi (1884). Mãi đến khi vua Đồng Khánh lên ngôi (1886), ông mới được tha về và cho khôi phục tước Tuy Lý công.

Năm 1889, Thành Thái nguyên niên, ông được cử làm Đệ nhất Phụ chính Thân thần, kiêm nhiếp Tông Nhân Phủ Tả Tôn Chính, tấn thăng Tuy Lý Quận vương như trước. Năm 1894, tháng 7, vì có công lao lớn, ông lại được tấn phong làm Tuy Lý Vương (綏理王).

Năm 1897, vì tuổi già, ông xin về nghỉ, chẳng bao lâu thì bị bệnh mất ngày 24 tháng 10 năm Đinh Dậu (18 tháng 11 năm 1897), hưởng thọ 77 tuổi. Nghe tin ông mất, Thành Thái cấp một ngàn quan tiền lo việc tang và ban thụy là Đoan Cung (端恭). Mộ Tuy Lý Vương nay thuộc phường Phường Đúc, sát bên đường Bùi Thị Xuân, thành phố Huế.

Ông được Ngự chế ban cho bộ Thảo (艸) để đặt tên cho con cháu.

Gia quyến

  • Thân phụ: Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng.
  • Thân mẫu: Dạ Trạch, (1799 - 1863), người An Triền (Phong Điền, Thừa Thiên), con gái thứ ba của Cẩm y Hiệu úy Năm 1813, bà được tuyển vào tiềm để, hầu Minh Mạng khi còn là Thái tử. Năm 1836, bà được sách phong Tiệp dư (婕妤), là bậc thứ 6 trong 9 bậc phi tần nhà Nguyễn..
  • Chính thất: Phạm Thị Thìn, con gái của Đức tả quân Phạm Văn Điển.

Anh chị em

Em trai: Kiến Tường công Nguyễn Phúc Miên Quan (建祥公阮福綿官; 21 tháng 5 năm 1827 - 3 tháng 2 năm 1847), tự Tắc Tư (則思), con trai thứ 36 của vua Minh Mạng. Còn trẻ mà khôi ngô kỳ lạ, tính tình hiếu thảo, có học hạnh. Năm thứ 21 được phong Kiến Tường Quận công (建祥郡公). Công vốn nhiều bệnh tật, mất khi mới 20 tuổi. Vua Thiệu Trị cho thụy là Cung Lượng (恭肅). Vua Bảo Đại truy phong Kiến Tường công (建祥公), cải thụy Cung Túc (恭肅). Có ba con trai, một con gái. Con trai lớn là Hồng Mục tập phong Kỳ ngoại hầu.

Em gái: Hòa Mỹ công chúa Nguyễn Phúc Trang Tĩnh (和美公主阮福莊靜; 1 tháng 10 năm 1825 - 19 tháng 3 năm 1847), con gái thứ 22 của vua Minh Mạng. Lúc bé đoan trang dịu dàng, không cẩu thả, tính tình hiếu đễ, được mẹ yêu quý. Chúa có sẹo ở góc trán bằng đồng tiền, có người bảo lấy phấn bôi lấp đi, nhưng chúa không nghe, người đều cho là lạ. Mất sớm khi chưa lập gia thất, thụy là Gia Thục (嘉淑), liệt thờ vào đền Triển Thân. Sau cải thờ ở đền Thân Huân.

Em gái: Hoàng nữ Nhàn Trinh, con gái thứ 30 của vua Minh Mạng, mất sớm.

Em trai: Nguyễn Phúc Miên Long, con trai thứ 22 của vua Minh Mạng, mất sớm.

Hậu duệ

Tuy Lý vương có tất cả 41 con trai và 36 con gái.

Con trai

  • Nguyễn Phúc Hồng Sâm, con bà Thìn. Năm 1883, bị Nguyễn Văn Tường giết.
  • Nguyễn Phúc Hồng Tú, thế tập tước Huyện công. Đồng Khánh lên ngôi mới phục tước của 2 cha con. *Nguyễn Phúc Hồng Nhung con trai thứ 3 của Tuy Lý Vương, tước vị Quận công, sau con trai thứ 2 Nguyễn Phúc Ưng Ân giữ tước vị Hương Công Hiệp Tá Đại Học Sĩ
  • Nguyễn Phúc Hồng Côn
  • Nguyễn Phúc Hồng Nhĩ, con trai thứ 8 của Tuy Lý vương. Ban đầu làm Điển bạ, sau tập tước Công, sung chức Tôn nhân phủ Tả tôn khanh rồi cải làm Tham tri bộ Lễ.
  • Nguyễn Phúc Hồng Tuý
  • Nguyễn Phúc Hồng Nghệ
  • Nguyễn Phúc Hồng Minh
  • Nguyễn Phúc Hồng Phiên
  • Nguyễn Phúc Hồng Nhã
  • Nguyễn Phúc Hồng Tố
  • Nguyễn Phúc Hồng Tảo
  • Nguyễn Phúc Hồng Phí
  • Nguyễn Phúc Hồng Dụ
  • Nguyễn Phúc Hồng Thiết (1848 - 1937), giữ chức Án sát Quảng Nam, hiệu Liên Nghiệp Hiên, còn tên hiệu khác là Hiệp Tá Tiểu Thảo, con trai thứ 18 của Tuy Lý vương và bà Thìn.

    Ưng Bình, hiệu Thúc Giạ Thị (菽野氏) là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến.

    Ưng Tôn, hiệu Thúc Thuyên (菽荃) thân phụ của cố Thủ tướng Nguyễn Phúc Bửu Lộc.

    Ưng Thiều, pháp danh Như Chánh, có một con gái là Thích nữ Trí Hải, tên Phùng Khánh.

  • Nguyễn Phúc Hồng Thi, từng là tri huyện Hương Trà. Hồng Thi sinh Ưng Úy (1889 - 1954), là cựu Thượng thư dưới thời Bảo Đại. Ưng Úy sinh giáo sư Nguyễn Phúc Bửu Hội.
  • Nguyễn Phúc Hồng Thương
  • Nguyễn Phúc Hồng Trữ
  • Nguyễn Phúc Hồng Cát. sinh : # Nguyễn Phúc Ưng Thuyên,hiệu là Vu Hương, là một nhà thơ và họa sĩ, có con trai là họa sĩ Bửu Chỉ # Nguyễn Phúc Ưng Quả, hiệu là Vân Hán, thầy dạy học của Thái tử Bảo Long. Ưng Quả sinh Nguyễn Phúc Bửu Minh, và Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang (tức là ca sĩ Quỳnh Giao).
  • Nguyễn Phúc Hồng Thục, con bà Liên.
  • Nguyễn Phúc Hồng Bồng, con bà Liên.

Con gái

  • Nguyễn Phúc Trĩ Châm, trưởng nữ, con bà Liên.
  • Nguyễn Phúc Trĩ Phu
  • Nguyễn Phúc Ấu Phu
  • Nguyễn Phúc Thiếu Phu

Tác phẩm

Tác phẩm Tuy Lý vương gồm có: *Vỹ Dã hợp tập, gồm 12 quyển, trong đó có 5 quyển văn, 6 quyển thơ, 1 quyển tự truyện. Thơ (mặt mạnh của ông) trong bộ sách này chủ yếu theo thể thất ngôn, ngũ ngôn, cổ phong hoặc Đường luật và một ít thơ Nôm. Nội dung thơ, một số là thơ thù phụng hoặc nói về sinh hoạt nhàn nhã của giới hoàng tộc, một số khác nói lên cảm xúc của ông trước thiên nhiên, tình cảm của ông đối với người thân và bạn bè.

*Nữ phạm diễn nghĩa từ* (Lời diễn nghĩa các khuôn phép của nữ giới). Đây là tác phẩm Nôm, soạn năm 1853, dựa theo Liệt nữ truyện của Lưu Hướng, và Cổ kim liệt nữ truyện của Giải Tấn (cả hai tác giả đều là người Trung Quốc), mang nội dung đề cao đạo đức phụ nữ theo quan điểm luân lý phong kiến. Hòa Lạc ca** (Bài ca về con thuyền Hòa Lạc), 64 câu thơ Nôm, cùng làm chung với Miên Thẩm và Miên Bửu, khi ba anh em đi chơi trên chiếc du thuyền này tại Thuận An (Huế), chẳng may gặp sóng gió suýt bị nạn.

Ngoài ra, theo sách Vua Minh Mạng với Thái y viện và website Nguyễn Phước tộc, thì Miên Trinh còn có tác phẩm Nghinh Tường Khúc.

Nhận xét

Nói về ông, sách ''Vua Minh Mạng với Thái y viện" có đoạn: :Miên Trinh, không chỉ là nhà trí thức uyên bác, mà còn là một người mang tâm hồn phóng khoáng, giản phát, biết sống chân thật, biết đối nhân xử thế...Thơ ông có rất nhiều bài, nhưng có lẽ đặc sắc nhất vẫn là những bài phản ảnh thực trạng xã hội, tuy số lượng không nhiều..

Và trong Từ điển Văn học (bộ mới): :Miên Trinh chăm chỉ từ bé, xem nhiều đọc rộng, học vấn uyên thâm, lại tinh cả nghề thuốc. Nhưng bản chất nhút nhát, an phận thủ thường, ông chỉ phụ trách Viện tôn học, giảng sách cho hoàng gia. :_Ông cùng Miên Thẩm tổ chức Mặc Vân thi xã. Đương thời, người ta gọi hai ông là _Nhị Tô'', tức ví họ với anh em Tô Triệt, Tô Thức đời Tống.

Giới thiệu thơ

Sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858 - 1920) viết: :Thơ Miên Trinh phần nhiều là các bài thơ chơi và thơ thù phụng, lời tuy khá điêu luyện, song ít có giá trị hiện thực, kém thơ Miên Thẩm, nhất là về mặt tư tưởng. Chỉ có mấy bài sau đây là đáng chú ý, trích:

Biết thông cảm nỗi khổ của người lao động, cho nên "trước cảnh đất nước bị nạn ngoại xâm, ông cũng rất đau lòng", trích 2 bài:

Ngoài ra, mùa xuân, là một trong những đề tài thường được Miên Trinh gửi gắm ít nhiều tâm sự, trích ba bài:

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tuy Lý Vương** (chữ Hán: 綏理王, 3 tháng 2 năm 1820 - 18 tháng 11 năm 1897), biểu tự **Khôn Chương** (坤章) và **Quý Trọng** (季仲), hiệu **Tĩnh Phố** (靜圃) và **Vỹ Dã** (葦野); là
**Ngụy An Ly vương** (chữ Hán: 魏安釐王; trị vì: 277 TCN - 243 TCN), tên thật là **Ngụy Ngữ** (魏圉), là vị vua thứ sáu của nước Ngụy - chư hầu nhà Chu thời Chiến
**Tùng Thiện vương** (chữ Hán: 從善王, 11 tháng 12 năm 1819 – 30 tháng 4 năm 1870), biểu tự **Trọng Uyên** (仲淵), lại có tự khác là **Thận Minh** (慎明), hiệu **Thương Sơn** (倉山), biệt
- Bảng có chống xếp để đứng trên bàn để viết hoặc xếp lại để nằm trên bàn để viết tùy ý. - Hai mặt trắng Poly Taiwan có ô ly vuông, viết lau dễ
**Vương Thế Sung** (? - 621), tên tự **Hành Mãn** (行滿), là một tướng lĩnh của triều Tùy. Ông là một trong số ít các tướng Tùy đã đánh bại được các đội quân khởi
**Lý Mật** (; 582 – 619), biểu tự **Huyền Thúy** (玄邃), lại có tự **Pháp Chủ** (法主), là một thủ lĩnh nổi dậy chống lại sự cai trị của triều Tùy. Ban đầu, ông là
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Anh Dương Vương** (trị vì 590–618) là quốc vương thứ 26 của Cao Câu Ly. Ông là con trai cả của Bình Nguyên Vương. Ông được lịch sử biết đến nhiều vì đã đẩy lui
**Lý Thế Tích** (李世勣) (594 – 1 tháng 1 năm 670), nguyên danh **Từ Thế Tích** (徐世勣), dưới thời Đường Cao Tông được gọi là **Lý Tích** (李勣), tên tự **Mậu Công** (懋功), thụy hiệu
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Cao Ly Thái Tổ**, húy danh là **Vương Kiến** (Hangul: 왕건 (Wang Geon), chữ Hán: 王建, 31/1/877 - 4/7/943), trị vì từ năm 918 tới năm 943. Ông là vị vua đầu tiên đã thành
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Vương Vũ Tuấn** (chữ Hán: 王武俊, bính âm Wang Wujun, 735 - 9 tháng 8 năm 801), tên tự là **Nguyên Anh** (元英), bản danh **Một Nặc Hàn** (沒諾幹), thụy hiệu **Lang Nha Trung Liệt
**Hòa Thạc Lý Thân vương** (chữ Hán: 和碩履親王, ), là tước vị truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Lý vương phủ là Dận Đào -
**Bảo Tạng Vương** (trị vì 642–668) là vị quốc vương thứ 28 và cuối cùng của Cao Câu Ly, vương quốc cực bắc trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông được lãnh đạo quân sự Uyên
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Crown_Prince_Yinreng.jpg|thế=|nhỏ|[[Dận Nhưng (1674 - 1725), thủy tổ của Lý vương phủ]] **Hòa Thạc Lý Thân vương** (, chữ Hán: 和碩理親王), là một tước vị thế tập của triều đại nhà Thanh trong lịch sử Trung
**Quân đội nhà Lý** là tổ chức quân đội của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, từ đầu thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 13. Hoạt động quân sự nhà Lý diễn ra
right|247x247px|thumb|Thái tử phi và chồng - Hoàng tử Lý Ngân **Lý Phương Tử**, **Nữ vương Nashimoto Masako** hay **Thái tử phi Ý Mẫn của Triều Tiên** (_Euimin_, _Ri Masako_) (4 tháng 11 năm 1901 –
**Phiên vương quốc** (Hán-Việt: 藩王國, tiếng Anh: Princely state), gọi tắt **phiên quốc**, hoặc **thổ bang**, là một quốc gia chư hầu nằm dưới quyền cai trị của các hoàng tộc bản địa Ấn Độ,
**Tiểu Cao Câu Ly** (699 - 820) (소고구려, 小高句麗) là một nhà nước do những người tị nạn Cao Câu Ly lập ra. Vương quốc ban đầu được gọi là "Cao Ly" song về sau
thumb|[[Dịch Hân - Vị Cung Thân vương đầu tiên là Thiết mạo tử vương.]] **Hòa Thạc Cung Thân vương** (, ) là một tước vị Thân vương truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử
**Đông Xuyên Vương** (209–248, trị vì 227–248) là quốc vương thứ 11 của Cao Câu Ly, vương quốc cực bắc trong Tam Quốc Triều Tiên. ## Bối cảnh Ông là cháu của vị quốc vương
**Vương hậu** (chữ Hán: 王后; Hangul: 왕후Wanghu; tiếng Anh: Queen Consort) là một Vương tước thời phong kiến của một số quốc gia phương Đông như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và các quốc
**Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly** (1231 - 1273) là cuộc xâm lăng Vương quốc Cao Ly (vương triều cai trị bán đảo Triều Tiên từ năm 918 đến năm 1392) của Đế quốc
**Lưu Ly Vương** (phiên âm từ các chữ Hán 瑠璃王 hoặc 琉璃王), hay Nho Lưu Vương (phiên âm từ 儒留王), tại thế 38 TCN - 18, trị vì 19 TCN - 18 (37 năm), là
**Đại Vũ Thần Vương** (4-44, trị vì 18-44)đọc là Muhyul, là vị vua thứ ba của Cao Câu Ly - một trong ba quốc gia của thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên. Vua Thần Vương
**Mộ Bản Vương** (? - 53), (48 - 53) là vị quốc vương thứ năm của Cao Câu Ly - một trong ba quốc gia thời Tam Quốc Triều Tiên. ## Bối cảnh Theo sách
**Vương quốc Ayutthaya** (tiếng Thái: อยุธยา; phiên âm tiếng Việt: _A-dút-tha-da_; Hán-Việt: **A Du Đà Da** 阿瑜陀耶 hay **Đại Thành** 大城) là một vương quốc của người Thái tồn tại từ năm 1351 đến 1767.
**Vương Phụ Thần** (chữ Hán: 王辅臣, ? – 1681) biệt hiệu là **Tây Lộ Mã Diêu Tử** (西路馬鷂子), là tướng lĩnh đầu thời Thanh. Ban đầu khởi binh chống Thanh rồi đầu hàng và được
**Hòa Thạc Nghi Thân vương** (chữ Hán: 和碩儀親王, ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Nghi vương phủ là
**An Nguyên Vương** (mất 545, trị vì 531–545) là quốc vương thứ 23 của Cao Câu Ly. Ông là đệ của An Tạng Vương, và được cho là cao lớn và sáng suốt. Khi An
**Nhân Đức Vương hậu** (Hangul: 인덕왕후, chữ Hán: 仁德王后; ? – 1365), còn được gọi là **Lỗ Quốc Đại trưởng công chúa** (인덕왕후; 魯國大長公主), thuộc tộc Bột Nhi Chỉ Cân, là Chính thất Vương hậu
**Cố Quốc Nguyên Vương** (?-371, trị vì 331-371) là vị quốc vương thứ 16 của Cao Câu Ly, vương quốc cực bắc trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai của Mỹ Xuyên Vương
**Thân vương quốc Bulgaria** (, _Knyazhestvo Balgariya_), là một quốc gia chư hầu của Đế chế Ottoman, nhưng độc lập trên thực tế. Nó được thành lập theo Hiệp ước Berlin năm 1878. Sau khi
**Vương quốc** là một vùng lãnh thổ hay quốc gia được cai trị bởi chế độ quân chủ mà đứng đầu là một vị Quốc vương hoặc Nữ vương (còn có nhiều cách gọi khác
**Vương tử Augustus Frederick, Công tước xứ Sussex** (27 tháng 1 năm 1773 – 21 tháng 4 năm 1843) là con trai thứ sáu và là người con thứ chín của Vua George III của
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland) được cấu thành từ 4 nước (country) bao gồm: Anh (England), Bắc Ireland, Scotland và Wales. Trước năm 1922,
**Nhà Tùy** (, 581-619) là một triều đại trong lịch sử Trung Quốc, kế thừa Nam-Bắc triều, theo sau nó là triều Đường. Năm 581, Tùy Văn Đế Dương Kiên thụ thiện từ Bắc Chu
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
[[Tùy Dạng Đế, do họa sĩ thời Đường Diêm Lập Bản họa (khoảng 600–673)]] Chân dung [[Đường Cao Tổ]] **Tùy mạt Đường sơ** (隋末唐初) đề cập đến một giai đoạn mà trong đó triều đại
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Tùy Văn Đế** (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu **Tùy Cao Tổ**, tên Hán là **Dương Kiên** (楊堅), tên Tiên Ti là **Fuluruqen** (普六茹堅, Phổ Lục Như
nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến **Vương Kiến** (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự **Quang Đồ** (光圖), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Thục Cao
**Định lý Pythagoras**
Tổng diện tích của hai hình vuông có cạnh là hai cạnh vuông của tam giác vuông (_a_ và _b_) bằng diện tích của hình vuông có cạnh là cạnh huyền (_c_). Trong
**_Quân Vương_** (tiếng Ý: _Il Principe_, tiếng Anh:_The Prince_) là một cuốn sách bàn về khoa học chính trị của nhà ngoại giao, nhà sử học, nhà triết học chính trị người Ý tên Niccolò
**Hiến Ai Vương hậu** (Hangul: 헌애왕후, Hanja: 獻哀王后; 964 – 20 tháng 1, 1029), hay **Thiên Thu Vương thái hậu** (천추왕태후, 千秋王太后), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ, đồng thời
**Lý Nguyên Cát** (chữ Hán: 李元吉, 603 – 2 tháng 7 năm 626), biểu tự **Tam Hồ** (三胡), là một thân vương của triều đại nhà Đường. Ông là con của hoàng đế khai quốc
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền