Mã Hy Phạm () (899, và chưa hoàn toàn kiểm soát được Vũ An- sau trở thành trấn trung tâm của nước Sở, song đang dần củng cố quyền lực. Mã Hy Phạm và thứ huynh là Mã Hy Thanh được ghi là sinh cùng ngày. Chu Bản (周本) đánh bại và bắt giữ quân phiệt Nguy Toàn Phúng, thuộc hạ của Nguy Toàn Phúng là Cát châu thứ sử Bành Can (彭玕) chạy sang Sở quy phục Mã Ân. Mã Ân phong cho Bành Can làm Sâm châu thứ sử, và cho Mã Hy Phạm kết hôn với con của Bành Can.
Năm 923, Hậu Lương bị Hậu Đường chinh phục, Mã Ân quy phục Hậu Đường, cử Mã Hy Phạm đến kinh thành Lạc Dương cống nạp. Hậu Đường Trang Tông Lý Tồn Úc thấy Mã Hy Phạm nhanh nhẹn thông minh thì yêu mến, song vì muốn ly gián Mã Ân với mưu chủ Cao Úc (高郁) nên nói với Mã Hy Phạm rằng "Gần đây nghe thấy rằng Mã thị đang bị Cao Úc cướp đoạt, nay có người con trai như thế này thì Cao Úc sao có thể đạt được?" (Mã Ân không lay động, song Cao Úc bị Mã Hy Thanh sát hại vào năm 929.)
Quân chủ Kinh Nam Cao Quý Hưng nguyên cũng là chư hầu của Hậu Dường, song sang tháng 6 ÂL năm 928 lại quay sang chống Hậu Đường và quy phục Ngô. Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên lệnh cho Mã Ân thảo phạt Cao Quý Hưng. Mã Ân khiển Hứa Đức Huân đem binh tiến công Kinh Nam, cho Mã Hy Phạm làm giám quân. Khi quân Sở đến Sa Đầu, họ giáp mặt với quân Kinh Nam. Cháu của Cao Quý Hưng là Vân Mãnh chỉ huy sứ Cao Tòng Tự (高從嗣) một mình cưỡi ngựa đến gần chỗ quân Sở khiêu chiến với Mã Hy Phạm. Tướng Sở là Quyết Thắng phó chỉ huy sứ Liệu Khuông Tề (廖匡齊) ra đấu và giết Cao Tòng Tự. Cao Quý Hưng sợ hãi thỉnh hòa, Hứa Đức Huân trở về.
Trị vì
Thời Hậu Đường
Ngày Tân Mão (11) tháng 7 năm Nhâm Thìn (15 tháng 8 năm 932), Mã Hy Thanh qua đời. Các đại thần, dẫn đầu là Lục quân sứ Viên Thuyên (袁詮) và Phan Ước (潘約) nghênh đón Trấn Nam tiết độ sứ Mã Hy Phạm ở Lãng châu để lập làm người kế nhiệm. Ngày Canh Thân (11) tháng 8 (13 tháng 9), Mã Hy Phạm đến Trường Sa, đến ngày Tân Dậu hôm sau thì tập vị. Ngày Nhâm Ngọ (3) tháng 9 (5 tháng 10), Hậu Đường Minh Tông bổ nhiệm Mã Hy Phạm giữ chức Vũ An tiết độ sứ, kiêm Thị trung. Đến ngày Ất Mão (9) tháng 2 năm Quý Tị (7 tháng 3 năm 933), Hậu Đường Trang Tông bổ nhiệm Mã Hy Phạm giữ chức Vũ An-Vũ Bình tiết độ sứ kiêm Trung thư lệnh. tiết độ sứ-Đồng bình chương sự Mã Hy Cảo (馬希杲) do Hoa phu nhân sinh. Mã Hy Cảo là người thiện chính, tuy nhiên Giám quân Bùi Nhân Chiếu (裴仁照) vu cáo với Mã Hy Phạm rằng Mã Hy Cảo cố gắng thu phục lòng dân chúng. Điều này khiến cho Mã Hy Phạm nghi ngờ Mã Hy Cảo, đến tháng 4 ÂL năm Bính Thân (936), tướng Nam Hán Tôn Đức Uy (孫德威) xâm nhập hai châu Mông, Quế, Mã Hy Phạm mệnh đệ là Vũ An tiết độ phó sứ Mã Hy Quảng tạm quyền cai quản quân phủ sự tại Trường Sa, tự đem năm nghìn bộ binh và kị binh đến Quế châu. Mã Hy Cảo trở nên sợ hãi, Hoa phu nhân hẹn Mã Hy Phạm ở Toàn Nghĩa lĩnh, bà nói: "Hi Cảo quản lý vô trạng, khiến cho khấu nhung [tức quân Nam Hán] nhập cảnh làm phiền Điện hạ phải thân vượt hiểm trở, đó đều là tội của kẻ làm thiếp đây. Nguyện xin trừ bỏ phong ấp, đêm tối quét dọn cung đình, để chuộc tội cho Hy Cảo." Mã Hy Phạm đáp lại rằng: "Ta lâu ngày không thấy Hy Cảo, nghe thấy nó quản lý lạ kỳ, do đó đến để xem, không có gì khác." Quân Nam Hán rút đi, song Mã Hy Phạm chuyển Mã Hy Cảo làm tri Lãng châu.
Thời Hậu Tấn
Năm 936-937, Thạch Kính Đường liên kết với Khiết Đan, lật đổ Hậu Đường Mạt Đế Lý Tòng Kha, và lập ra triều Hậu Tấn. Mã Hy Phạm tiếp tục là một chư hầu của Hậu Tấn.
Ngày Mậu Thân (7) tháng 5 năm Kỉ Hợi (28 tháng 5 năm 939), Hậu Tấn Cao Tổ ban thêm cho Mã Hy Phạm chức Thiên Sách thượng tướng quân — một chức tước từng do Đường Thái Tông và Mã Ân nắm giữ. Hậu Tấn Cao Tổ còn ban cho Mã Hy Phạm ấn, Mã Hy Phạm do vậy khai Thiên Sách phủ, đặt hiệu 'hộ quân đô úy', hay 'lĩnh quân tư mã' cho chư đệ và tướng; đồng thời cho 18 người làm học sĩ (giống như Đường Thái Tông xưa kia).
Tháng 8 ÂL năm đó, chư hầu của Hậu Thục là Khê châu thứ sử Bành Sĩ Sầu (彭士愁) dẫn một đội quân được thuật là hơn vạn người Man tiến công hai châu Thìn và Lễ của Sở. Bành Sĩ Sầu khiển sứ sang Hậu Thục cầu viện để tiến quân hơn nữa, Mạnh Sưởng thấy chiến dịch diễn ra quá xa nên không đồng ý. Ngày Tân Mùi (3) tháng 9 (18 tháng 10), Mã Hy Phạm mệnh Tả Tĩnh Giang chỉ huy sứ Lưu Kình (劉勍) và Quyết Thắng chỉ huy sứ Liệu Khuông Tề suất năm nghìn Hành Sơn binh tiến đánh Bành Sĩ Đầu. Sang tháng 11 ÂL, quân Sở thoạt đầu giành được thắng lợi, buộc Bành Sĩ Đầu phải bỏ Khê châu và chạy đến sơn trại. Tuy nhiên, trong cuộc bao vây các hang trên núi sau đó, Liệu Khuông Tề chiến tử. Khi Mã Hy Phạm khiển người đến viếng, mẹ của Liệu Khuông Tề không khóc và nói với sứ giả: "300 khẩu của Liệu thị ấm no là do Vương ban cho. Cả tộc phụng sự mà chết cũng chưa báo đủ huống chi là một đứa con trai. Mong Vương không phải vì thế mà nghĩ ngợi." Mã Hy Phạm cho rằng mẹ của Liệu Khuông Tề là người có đức hạnh, cấp giúp nhiều cho gia tộc của bà. Tháng giêng năm Canh Tý (940), Bành Sĩ Sầu đem ấn ba châu Khê, Cẩm, Tưởng thỉnh hàng Sở. Mã Hy Phạm dời trị sở của Khê châu đến nơi thuận tiện, cho Bành Sĩ Sầu làm Khê châu thứ sử và cho Lưu Kình làm Cẩm châu thứ sử. Theo như ghi chép, từ lúc đó các nhóm người Man trong khu vực phục tòng Sở. Mã Hy Phạm tự tuyên bố là hậu duệ của Phục Ba tướng quân Mã Viện, dùng 5000 cân đồng để đúc trụ cao một trượng hai xích, cắm sâu 6 xích dưới lòng đất, khắc lời thề lên trên, dựng tại Khê châu. tiết độ sứ An Tòng Tiến (安從進) của Hậu Tấn phản lại triều đình. Hậu Tấn Cao Tổ cho Cao Hành Chu (高從誨) đem quân đi thảo phạt An Tòng Tiến, ban chiếu yêu cầu Sở và Kinh Nam trợ giúp. Mã Hy Phạm khiển Thiên Sách đô quân sứ Trương Thiếu Địch (張少敵) đem 150 chiến hạm vào Hán giang trợ giúp Cao Hành Chu, ngoài ra còn vận lương tặng cho quân Hậu Tấn, quân chủ Kinh Nam là Cao Tòng Hối cũng tuân theo.
Năm 945, Mã Hy Phạm lại nghi ngờ Mã Hy Phạm cố gắng thu thập nhân tâm ở Lãng châu, do vậy ông cử người dò xét. Mã Hy Cảo sợ hãi, xưng rằng bị bệnh xin được về Trường Sa. Mã Hy Phạm từ chối và khiển thầy thuốc đến trị bệnh, thừa cơ độc sát Mã Hy Cảo.
Biết rằng hoàng đế đương thời của Hậu Tấn là Thạch Trọng Quý thích xa xỉ phẩm, Mã Hy Phạm nhiều lần dâng vật quý, xin được phong chức Đô nguyên soái. Ngày Giáp Thìn (17) tháng 9 năm Bính Ngọ (14 tháng 10 năm 946), Thạch Trọng Quý bổ nhiệm Mã Hy Phạm làm Chư đạo binh mã đô nguyên soái.
Sau khi Hậu Tấn sụp đổ
Năm 946, Hoàng đế Khiết Đan Da Luật Đức Quang tiến công Hậu Tấn, tiêu diệt triều đại này vào tháng 1 năm 947 (tháng 12 năm Bính Ngọ). Liêu Thái Tông khiển sứ giả đến Sở, ban cho Mã Hy Phạm tước Thượng phụ, Mã Hy Phạm rất hài lòng. sự Mã Hy Ngạc là người lớn tuổi nhất trong số các huynh đệ khi đó. Mã Hy Quảng do vậy được tuyên bố là quân chủ mới, cuối cùng dẫn đến một cuộc nội chiến giữa Mã Hy Quảng và Mã Hy Ngạc khiến quốc gia suy sụp.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mã Hy Phạm** () (899, và chưa hoàn toàn kiểm soát được Vũ An- sau trở thành trấn trung tâm của nước Sở, song đang dần củng cố quyền lực. Mã Hy Phạm và thứ
**Mã Hy Quảng** (, ?-25 tháng 1 năm 951 và là em trai cùng mẹ với Mã Hy Phạm- con trai thứ tư của Mã Ân, hai người là con của Trần phu nhân. Do
**Mã Hy Ngạc** (馬希萼), gọi theo thuỵ hiệu là **Sở Cung Hiếu vương** (楚恭孝王), là quân chủ thứ năm của nước Sở thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông tiến hành chiến tranh nhằm tranh ngôi
**Mã Hy Thanh** () (899-15 tháng 8, 932, và chưa kiểm soát được hoàn toàn Vũ An, song đang trong quá trình củng cố quyền lực. Mẹ của Mã Hy Thanh là Viên thị, bà
**Mã Hy Sùng** (馬希崇) là quân chủ thứ sáu và cuối cùng của nước Sở thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông cầm quyền sau khi anh cùng mẹ là Mã Hy Ngạc bị phế truất.
**Mã Ân** () (853, Tằng tổ phụ của ông tên là Mã Quân (馬筠), tổ phụ của ông tên là Mã Chính (馬正), còn cha của ông tên là Mã Nguyên Phong (馬元豐). Gia đình
**Phạm Liệu** (范燎, 1873-1937), tự là **Sư Giám**, hiệu là **Tang Phố** (桑圃), là một danh sĩ Việt Nam. Ông được xem là người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải
nhỏ|Bản báo cáo của Ủy ban nhân quyền Tháng 9 năm 1967, Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, cùng Hà Lan tố cáo chính quyền quân sự Hy Lạp làm trái Công ước nhân quyền
**Bạc Hy Lai** (sinh ngày 3 tháng 7 năm 1949) là một cựu chính trị gia Trung Quốc. Ông nổi lên trên chính trường từ nhiệm kỳ làm thị trưởng thành phố Đại Liên và
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
Phạm Duy Khiêm năm 1943 **Phạm Duy Khiêm** (1908–1974) là nhà giáo, nhà văn, cựu đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp và tại UNESCO. Ông là con trai nhà văn Phạm Duy Tốn
Tượng bán thân [[Zeus ở Otricoli (Sala Rotonda, Museo Pio-Clementino, Vatican), tỉnh Terni. Trong thần thoại Hy Lạp, Zeus là chúa tể các vị thần, ngự trên đỉnh Olympus.]] **Thần thoại Hy Lạp** là tập
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
**Phạm Ngọc Lan** (1934–2019) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Tuy nhiên, ông thường được nhiều người biết đến với tư cách là phi công Việt Nam đầu
**Phạm Đăng Thuật** (? - 1861), ông là dòng dõi của họ Phạm Đăng ở gò Sơn Quy, Mỹ Tho, Tiền Giang. Ông là con trai thứ của Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng và
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Nền văn minh La Mã cổ đại** đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. **Roma** ngày nay trước kia
**Phạm Thị Huệ** (sinh năm 1996) là một nữ vận động viên điền kinh người Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Thị Huệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại thôn Tân Lương xã
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Cuộc chinh phục Hispania của La Mã** là một quá trình được bắt đầu bằng việc Cộng hòa La Mã chiếm giữ các vùng đất của người Carthage ở phía nam và phía đông vào
Hy Lạp không phải là một trong mười thành viên sáng lập của Ủy hội châu Âu, nhưng là quốc gia đầu tiên tham gia, ba tháng sau ngày tổ chức này được thành lập,
**Phạm Băng Băng** (tiếng Trung: 范冰冰, tiếng Anh: _Fan Bingbing_; sinh ngày 16 tháng 9 năm 1981) là một nữ diễn viên người Trung Quốc. Là chủ nhân của một số giải thưởng lớn, cô
thumb|Bản đồ cho thấy các vùng lãnh thổ và thuộc địa của người Hy Lạp dưới [[thời kỳ Archaic.]] **Hy Lạp hóa** (tiếng Anh: _Hellenisation_; tiếng Mỹ: _Hellenization_) là sự truyền bá nền văn hóa
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Văn học Hy Lạp** bắt nguồn từ văn học Hy Lạp cổ đại, bắt đầu từ năm 800 trước Công nguyên, đến văn học Hy Lạp hiện đại ngày nay. Văn học Hy Lạp cổ
thumb|Hình 1. Hải mã trong não người|260x260px **Hồi hải mã** (hay **hải mã**, **cấu tạo hải mã**, ; , bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại **_ἱππόκαμπος_**, nghĩa là con cá ngựa) là thành
**Luật La Mã** là hệ thống pháp luật của La Mã cổ đại, phát triển qua nghìn năm luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật _Pháp điển Dân sự_
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
nhỏ|phải|[[Máy Enigma, được người Đức sử dụng trong Đại chiến thế giới II, thực hiện mã hóa được bao vệ các thông tin tính toán học nhạy cam.]] **Mật mã học** là một lĩnh vực
**Mật mã học** là một ngành có lịch sử từ hàng nghìn năm nay. Trong phần lớn thời gian phát triển của mình (ngoại trừ vài thập kỷ trở lại đây), **lịch sử mật mã
**Hy Lạp cổ điển** là một nền văn hóa có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa La Mã cổ đại và vẫn còn tác dụng trên các nền văn minh phương Tây. Phần lớn
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
Đế quốc La Mã dưới triều đại [[Hadrianus (cai trị từ 117-38), cho thấy tỉnh hoàng đế Thracia nằm ở đông nam châu Âu.]] [[Giáo khu La Mã của Thraciae.]] **Thracia** (tiếng Hy Lạp: Θρᾴκη,
Dưới đây là danh sách các vị thần trong Thần thoại Hy Lạp. ## Các thần nguyên thủy - Primordial ### Các thần sinh ra đầu tiên - Protogenoi I ### Các thần thế hệ
thumb|_Ma cà rồng_, tranh vẽ bởi [[Philip Burne-Jones, 1897]] **Ma cà rồng** là cách gọi một sinh vật huyền huyễn được truyền tụng từ lâu trong ký ức dân gian, loài này được cho là
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
Toàn cảnh nhà Đày **Nhà Đày Buôn Ma Thuột** là một di tích lịch sử tại Đắk Lắk, Việt Nam với kết cấu là một di tích hệ thống nhà tù (nhà đày) cũ từ
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Hà mã** là một loài động vật có vú ăn cỏ lớn sống ở châu Phi Hạ Sahara, và là một trong hai loài còn sinh tồn của Họ Hà mã (Hippopotamidae); loài còn lại
**_Chuyện ma gần nhà_** (tựa tiếng Anh: _Vietnamese Horror Story_) là một bộ phim điện ảnh Việt Nam ra mắt năm 2022 thuộc thể loại kinh dị, dựa trên những truyền thuyết đô thị ở
nhỏ|321x321px|Hình tượng trưng một con ma **Ma** còn được gọi là **hồn ma**, là một khái niệm theo quan niệm dân gian để chỉ hồn của người chết (hoặc các sinh vật đã chết khác
**Cột đồng Mã Viện** là một cây cột đồng lớn do viên chỉ huy quân đội nhà Hán là Mã Viện cho dựng sau khi chinh phục được cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.