✨Mã Ân
Mã Ân () (853, Tằng tổ phụ của ông tên là Mã Quân (馬筠), tổ phụ của ông tên là Mã Chính (馬正), còn cha của ông tên là Mã Nguyên Phong (馬元豐). Gia đình ông xưng là hậu duệ của đại tướng Mã Viện nhà Hán.
Khi quân Trung Vũ đóng tại Thái châu để đề phòng quân nổi dậy Hoàng Sào, Mã Ân đang phụng sự trong đội quân này, dưới quyền các chỉ huy Tôn Nho và Lưu Kiến Phong (劉建鋒). Đương thời, Mã Ân nổi danh về tài trí và dũng Mãnh. Sau đó, khi Phụng Quốc tiết độ sứ Tần Tông Quyền nổi dậy chống lại Đường Hy Tông, Tôn Nho cùng Lưu Kiến Phong và binh sĩ cấp dưới nằm dưới quyền chỉ huy của Tần Tông Quyền.
Phụng sự Tôn Nho
Năm 887, Tần Tông Quyền khiển đệ là Tần Tông Hành (秦宗衡), cùng cấp phó là Tôn Nho, vượt Hoài Hà tiến đến Hoài Nam quân để tranh đoạt quân này; Trương Cát, Lưu Kiến Phong, Mã Ân cùng tộc đệ của Tần Tông Quyền là Tần Ngạn Huy đều đi theo. Sau đó, Tôn Nho ám sát Tần Tông Hành và đánh bại Dương Hành Mật, đoạt lấy Dương châu và xưng là Hoài Nam tiết độ sứ.
Vào mùa xuân năm 891, Tôn Nho tiến công Dương Hành Mật Tuyên châu (宣州)- thủ phủ của Tuyên Thiệp quân. Quân của Tôn Nho không thể chiếm được Tuyên châu, lại bị Dương Hành Mật cắt đứt Đường vận chuyển lương thực. Tôn Nho quyết định khiển Lưu Kiến Phong và Mã Ân đem quân đi cướp bóc ở các huyện xung quanh. Ngày 3 tháng 7 năm 892, Dương Hành Mật tập kích giết chết Tôn Nho, hầu hết các binh sĩ của Tôn Nho đầu hàng Dương Hành Mật, Tôn Nho và Mã Ân tập hợp được 7.000 dư chúng, tiến về phía nam để đến Trấn Nam quân; các binh sĩ suy Tôn Lưu Kiến Phong làm soái, Mã Ân làm tiên phong chỉ huy sứ, Trương Cát (張佶) làm mưu chủ. Khi đến Giang Tây, số binh sĩ tăng lên hơn 10 vạn người.
Phụng sự Lưu Kiến Phong
Thay vì tiến công Trấn Nam quân, đội quân của Lưu Kiến Phong tiến tục tiến về phía tây nam, hướng đến Vũ An quân- đương thời do Đặng Xử Nột (鄧處訥) cai quản. Khi Lưu Kiến Phong tiến đến Lễ Lăng vào mùa hè năm 894, Đặng Xử Nột khiển Thiệu châu chỉ huy sứ Tưởng Huân (蔣勳) và Đặng Kế Sùng (鄧繼崇) đem 3.000 bộ-kị binh đến trấn thủ Long Hồi quan. Mã Ân tiến đến và khiển sứ đến chỗ Tưởng Huân và Đặng Kế Sùng, thuyết phục họ rằng sẽ không thể địch nổi Lưu Kiến Phong. Theo đề xuất của sứ giả, Tưởng Huân và Đặng Kế Sùng giải tán quân lính. Sau đó, Lưu Kiến Phong chiếm được thủ phủ Đàm châu của Vũ An, bắt rồi xử tử Đặng Xử Nột rồi xử tử, xưng là lưu hậu.
Vào mùa đông năm 895, Tưởng Huân và Đặng kế Sùng quay sang chống Lưu Kiến Phong, họ nhanh chóng chiếm được Thiệu châu, đe dọa Đàm châu. Đến mùa xuân năm 896, Lưu Kiến Phong khiển Mã Ân đem quân tiến công Tưởng Huân và Đặng Kế Sùng, Mã Ân thoạt đầu giành được thắng lợi. Tuy nhiên, vào lúc này Lưu Kiến Phong lại bị Trường trực binh Trần Thiệm (陳贍) ám sát, chư tướng giết Trần Thiệm và nghênh Hành quân tư Mã Trương Cát làm lưu hậu. Khi Trương Cát cưỡi ngựa nhập phủ, con ngựa bất ngờ hoảng sợ và khiến Trương Cát bị thương ở đùi trái. Trương Cát cho rằng việc mình kế nhiệm Lưu Kiến Phong không hợp ý của thần thánh, do vậy ông ta lệnh cho Mã Ân trở về Đàm châu nhằm ủng hộ Mã Ân kế nhiệm Lưu Kiến Phong. Mã Ân để Lý Quỳnh (李瓊) ở lại tiến tục tiến công Thiệu châu, còn ông trở về Đàm châu. Khi Mã Ân đến Đàm châu, Trương Cát giao lại quyền cai quản cho ông, ông chấp thuận; Trương Cát trở thành Hành quân tư mã, thay Mã Ân đem binh tiến công Thiệu châu. Đường Chiêu Tông sau đó bổ nhiệm Mã Ân làm lưu hậu. tiết độ sứ Thành Nhuế (成汭), do vậy ông định đem vàng và lụa đến tặng để kết giao. Mưu chủ Cao Úc (高郁) chỉ ra rằng Thành Nhuế không mạnh như ông nghĩ, còn Dương Hành Mật thì có thù với ông và không thể xoa dịu bằng của cải. Theo ý của Cao Úc, Mã Ân tập trung vào việc an phủ sĩ dân, huấn tốt lệ binh, xây dựng bá nghiệp, chống lại kẻ thù., Đường Thế Mân (唐世旻) chiếm Vĩnh châu; Thái Kết (蔡結) chiếm Đạo châu; Trần Ngạn Khiêm (陳彥謙) chiếm Sâm châu; và Lỗ Cảnh Nhân (魯景仁) chiếm Liên châu. Theo ý của bộ tướng Diêu Ngạn Chương (姚彥章), Mã Ân khiển Lý Quỳnh và Tần Ngạn Huy (秦彥暉) tiến công Hành châu và Vĩnh châu, kết quả nhanh chóng thắng lợi; Dương Sư Viễn chết trong lúc chạy trốn, còn Đường Thế Mân bị quân Mã Ân giết. Năm 899, Mã Ân khiển Lý Đường (李唐) tiến công Đạo châu, thoạt đầu bị Thái Kết đẩy lui, song sau đó Lý Đường giành được thắng lợi và giết chết Thái Kết, đoạt lấy Đạo châu. Cuối năm 899, Lý Quỳnh bắt giữ và xử tử Trần Ngạn Khiêm, Lỗ Cảnh Nhân tự sát khi Lý Quỳnh tiến công Liên châu, Mã Ân nay kiểm soát được toàn bộ 7 châu của Vũ An quân. Đường Chiêu Tông bổ nhiệm Mã Ân làm Vũ An tiết độ sứ. tiết độ sứ Lưu Sĩ Chính (劉士政) hay tin Mã Ân bình định được Vũ An, ông ta trở nên lo sợ và phái phó sứ Trần Khả Phan (陳可璠) đem quân đến đồn trú tại Toàn Nghĩa Lĩnh để đề phòng khả năng bị Mã Ân tiến đánh. Khi Mã Ân khiển sứ giả đến chỗ Lưu Sĩ Chính kết thân, Trần Khả Phan chống lại. Năm 900, Mã Ân khiển Tần Ngạn Huy và Lý Quỳnh đem 7.000 quân tiến công Tĩnh Giang. Họ nhanh chóng đánh bại quân của Lưu Sĩ Chính, giết Vương Kiến Vũ (王建武) và bắt giữ Trần Khả Phan. Quân Vũ An bao vây quân thành Quế châu, và Lưu Sĩ Chính đầu hàng sau vài ngày bị bao vây, Mã Ân nay đoạt được 5 châu của Tĩnh Giang: Quế, Nghi, Nham, Liễu, Tượng. Mã Ân bổ nhiệm Lý Quỳnh làm Tĩnh Giang tiết độ sứ.
Năm 902, trong lúc đang ở Phượng Tường dưới quyền khống chế của hoạn quan Hàn Toàn Hối và Phượng Tường tiết độ sứ Lý Mậu Trinh, còn Chu Toàn Trung thì bao vây Phượng Tường, Đường Chiêu Tông khiển Lý Nghiễm (李儼) đến các quân ở đông nam nhằm thuyết phục các quân phiệt ở đây hội quân với Dương Hành Mật tiến công Chu Toàn Trung. Trong số các chiếu chỉ mà Lý Nghiễm tuyên, Mã An được bổ nhiệm là Đồng bình chương sự (tức tể tướng trên danh nghĩa).
Năm 903, Lý Mậu Trinh buộc phải giao Đường Chiêu Tông cho Chu Toàn Trung. Sau đó, Dương Hành Mật khiển sứ giả đến gặp Mã Ân, cáo buộc Chu Toàn Trung ngang ngược, đề nghị hai bên liên minh (kết làm huynh đệ) với điều kiện Mã Ân cắt đứt quan hệ với Chu Toàn Trung. Đại tướng của Mã Ân là Hứa Đức Huân (許德勳) chỉ ra rằng Chu Toàn Trung khống chế Hoàng đế và Mã Ân không có lợi nếu tuyệt giao với người này, Mã Ân nghe theo và không chấp thuận lời đề nghị của Dương Hành Mật.
Đồng minh của Chu Toàn Trung là Vũ Xương tiết độ sứ Đỗ Hồng nhiều năm liền bị Dương Hành Mật tiến đánh, tình thế trở nên tuyệt vọng. Chu Toàn Trung khiển bộ tướng Hàn Kình (韓勍) đem một vạn quân tiến về phía nam để cứu Đỗ Hồng, ngoài ra cũng đề nghị Thành Nhuế, Mã Ân và Vũ Trinh tiết độ sứ Lôi Ngạn Uy (雷彥威) suất binh cứu Đỗ Hồng. Thành Nhuế chấp thuận và dẫn một hạm đội tiến đến Vũ Xương, tuy nhiên sau khi Thành Nhuế rời khỏi thủ phủ Giang Lăng, Mã Ân thừa cơ khiển Hứa Đức Huân đem một vạn binh hợp binh với 3.000 binh dưới quyền bộ tướng Âu Dương Tư (歐陽思) của Lôi Ngạn Uy, tiến công Giang Lăng. Liên quân chiếm được Giang Lăng, cướp người và tài sản rồi rút đi. Thành Nhuế hay tin gia quyến và gia sản nay nằm trong tay Mã Ân thì mất tinh thần rồi chiến bại, sau đó tự sát. Trên đường trở về Đàm châu, Hứa Đức Huân gặp gỡ Nhạc châu thứ sử Đặng Tiến Trung (鄧進忠), thuyết phục Đặng Tiến Trung quy phục Mã Ân. Đặng Tiến Trung đồng ý, dâng châu cho Mã Ân và cho đưa toàn bộ gia quyến đến Đàm châu để thể hiện sự quy phục. Mã Ân bổ nhiệm Hứa Đức Huân làm Nhạc châu thứ sử, bổ nhiệm Đặng Tiến Trung làm Hành châu thứ sử.
Năm 906, người kế vị Dương Hành Mật là Dương Ác khiển Tiên phong chỉ huy sứ Trần Tri Tân (陳知新) tiến công Nhạc châu. Trần Tri Tân giành được thắng lợi, buộc Hứa Đức Huân phải chạy trốn, Nhạc châu bị Hoài Nam thôn tính. Trong cùng năm, sau khi Dương Ác chiếm được hầu hết Trấn Nam quân và bắt tiết độ sứ Chung Khuông Thì (鍾匡時), Cát châu thứ sử Bành Can (彭玕) quyết định dâng Cát châu hàng Mã Ân.., Kinh châu, Tương châu, Đường châu, Dĩnh châu, và Phục châu, nhằm dùng trà của Sở để đổi lấy tơ lụa và chiến mã, hứa sẽ triều cống 25 vạn cân trà mỗi năm cho triều đình, Hậu Lương Thái Tổ chấp thuận. Theo ghi chép, nhờ đó mà Sở bắt đầu trở nên giàu có, sung túc., Mã Ân khiển Hứa Đức Huân đem thủy quân tiến công, Cao Quý Hưng sợ hãi nên quay sang thỉnh hòa. của tiết độ sứ Lưu Ẩn, chiếm được 6 châu: Chiêu châu, Hạ châu, Ngô châu, Mông châu, Cung châu, và Phú châu từ tay Lưu Ẩn.
Năm 909, Nguy Toàn Phúng (危全諷)- người kiểm soát bốn châu Phủ, Tín, Viên, Cát của Trấn Nam quân, trung tâm tại Phủ châu trong nhiều năm- xưng là Trấn Nam tiết độ sứ và tiến công Hồng châu. Khi Nguy Toàn Phúng cầu viện Mã Ân, Mã Ân khiển Chỉ huy sứ Uyển Mai (苑玫) cùng Viên châu thứ sử Bành Ngạn Chương (彭彥章) hợp binh bao vây Cao An nhằm phân tán quân Hoằng Nông. Sau khi Uyển Mai chiến bại và bị tướng Hoằng Nông là Chu Bản (周本) bắt được, quân Sở Triệt thoái. Ngoài ra, Bành Can từ bỏ Cát châu và chạy đến Đàm châu, Hoằng Nông thôn tính Cát châu. Mã Ân bổ nhiệm Bành Can làm Thần châu thứ sử, cho nhi tử là Mã Hy Phạm lấy nhi nữ của Bành Can làm thê. và Tự châu đem quân đến quấy rối các thành do Sở kiểm soát. Vào cuối năm 910, khi Tống Nghiệp tiến công Tương Hương, và Phan Kim Thịnh tiến công Vũ Cương, Mã Ân khiển Chu châu thứ sử Lã Chu đem 5.000 binh thảo phạt. Lã Chu ngay sau đó giết chết Phan Kim Thịnh,
Ninh Viễn tiết độ sứ Bàng Cự Chiêu (龐巨昭) và Cao châu phòng ngự sứ Lưu Xương Lỗ (劉昌魯) đẩy lui được một cuộc tiến công của Lưu Ẩn, song họ cho rằng bản thân không đủ lực để kháng cự với Lưu Ẩn trong một thời gian dài, do vậy quyết định viết thư cho Mã Ân đề nghị dâng lãnh thổ cho Mã Ân. Mã Ân rất hài lòng, khiển Hoàng châu thứ sử Diêu Ngạn Chương (姚彥章) đem quân đi nghênh đón họ. Mã Ân bổ nhiệm Lưu Xương Lỗ làm Vĩnh Thuận tiết độ phó sứ, cho Diêu Ngạn Chương quản lý sự vụ ở Dung châu (容州)- thủ phủ của Ninh Viễn quân,
Năm 914, Viên châu thứ sử Lưu Sùng Cảnh (劉崇景) của Ngô dâng châu hàng Mã Ân. Mã Ân khiển tướng Hứa Trinh (許貞) đem 1 vạn lính đến tăng viện. Tuy nhiên, đến khi các tướng Ngô là Sài Tái Dụng (柴再用) và Mễ Chí Thành (米志誠) đem quân tiến công, Lưu Sùng Cảnh và Hứa Trinh quyết định bỏ Viên châu, triệt thoái về Sở. của quân phiệt Đàm Toàn Bá (譚全播), Đàm Toàn Bá cầu viện từ cả ba nước là chư hầu của Hậu Lương: Ngô Việt của Tiền Lưu, Mân của Vương Thẩm Tri và Sở. Tiền Lưu khiển nhi tử là Tiền Truyền Cầu (錢傳球) tiến công Tín châu; Mã Ân khiển tướng Trương Khả Cầu (張可求) đem một vạn quân đến đóng tại Cổ Đình; và Vương Thẩm Tri thì phái quân tiến đến Vu Đô, đều nhằm cứu viện Đàm Toàn Bá. Tuy nhiên, quân Ngô Việt bị Tín châu thứ sử Chu Bản đẩy lui, sau đó Lưu Tín phái một đội quân đi đẩy lui quân Sở. Khi quân Ngô Việt và quân Mân biết tin quân Sở bị đẩy lui, họ cũng triệt thoái, Đàm Toàn Bá nay không còn cứu viện.
Năm 919, quân Sở tiến công Kinh Nam, Cao Quý Hưng cầu viện Ngô. Ngô khiển Lưu Tín tiến thẳng đến Đàm châu, trong khi khiển Lý Giản (李簡) tiến công Phục châu của Sở. Lý Giản bắt được Phục châu thứ sử Bảo Đường (鮑唐), đại quân Sở hay tin Lưu Tín tiến đến thì triệt thoái khỏi Kinh Nam.
Thời Hậu Đường
Thời Hậu Đường Trang Tông
Năm 923, Lý Tồn Úc xưng là người kế thừa hợp pháp của triều Đường, lập ra triều Hậu Đường. Sau đó, Hậu Đường Trang Tông chiếm được kinh thành Đại Lương của Hậu Lương, Hậu Lương diệt vong. Các quân trước đó nằm dưới quyền kiểm soát của Hậu Lương nay chuyển sang nằm dưới quyền cai quản của Hậu Đường. Mã Ân hay tin Hậu Đường giành được chiến thắng, quyết định khiển kì tử là Nha nội Mã bộ đô chỉ huy sứ Mã Hy Phạm đến triều kiến, nộp ấn Hồng-Ngạc hành doanh đô thống, dâng bản ghi nguyên tịch của tướng lại. Khi Mã Hy Phạm yết kiến Hậu Đường Trang Tông, Hậu Đường Trang Tông hỏi han về các sự kiện xảy ra tại Sở và cảm thấy ấn tượng. Trong khi muốn ca ngợi Mã Hy Phạm, Hậu Đường Trang Tông lại muốn gieo mầm nghi ngờ vào Cao Úc, ông ta nói với Mã Hy Phạm: "Ta thường nghe rằng một ngày nào đó Cao Úc sẽ đoạt lấy Hồ Nam. Nếu Sở vương có một nhi tử như người, sao Cao Úc có thể làm như vậy?"
Năm 924, Hậu Đường Trang Thông cho Mã Ân kiêm Trung thư lệnh.
Năm 925, Hậu Đường Trang Tông khiển hoàng tử là Ngụy vương Lý Kế Ngập (李繼岌) cùng đại tướng Quách Sùng Thao (郭崇韜) tiến công nước Tiền Thục của Vương Diễn. Khi hay tin Tiền Thục bị diệt, Mã Ân trở nên lo sợ, thượng biểu cho Hậu Đường Trang Tông, nói: Thần đã bắt đầu xây dựng một phủ ở chân Hành Sơn làm đất thối hưu, nguyện dâng ấn thụ để bảo toàn những năm lẻ còn lại. Hậu Đường Trang Tông hạ chiếu ủy dụ Mã Ân.
Thời Hậu Đường Minh Tông
Sau khi tức hoàng đế vị, Hậu Đường Minh Tông bổ nhiệm Mã Ân là Thượng thư lệnh. Trong khi đó, Cao Quý Hưng ngày càng có thái độ đối đầu với triều đình Hậu Đường, Hậu Đường Minh Tông quyết định khiển tướng Lưu Huấn (劉訓) tiến đánh Kinh Nam. Mã Ân khiển Hứa Đức Huân đem thủy quân hướng đến Kinh Nam, song dừng tại Nhạc châu. Lưu Huấn gặp trở ngại, Hậu Đường Minh Tông lại khiển Khổng Tuần (孔循) đến chiến tuyến để xem xét tình hình. Khổng Tuần khiển sứ ban an mã và ngọc đái cho Mã Ân, cũng thưởng y phục cho quân Sở, lôi kéo Mã Ân tham gia chiến dịch, yêu cầu Mã Ân gửi lương thảo cho quân của Lưu Huấn, song Mã Ân không thực hiện theo. Cuối cùng, Lưu Huấn buộc phải triệt thoái, Kinh Nam từ đó trở thành một nước độc lập trên thực tế., Cao Quý Hưng lo sợ và trao trả sứ giả Sở được khiển đến Hậu Đường là Sử Quang Hiến (史光憲)- người bị Cao Quý Hưng bắt sau khi ông ta quay sang chống Hậu Đường. Sau đó, khi Mã Ân trách mắng Vương Hoàn về việc không tiếp tục tiến công để diệt Kinh Nam, Vương Hoàn đáp: Giang Lăng nằm giữa Trung triều [tức Hậu Đường], Ngô, và Thục, là đất tứ chiến. Tốt nhất là để nó tồn tại nhằm che chắn cho ta, Mã Ân hiểu ra. của Hán Đế Lưu Nghiễm. Tuy nhiên, đội quân này chiến bại trước tướng Tô Chương (蘇章) của Nam Hán, và buộc phải triệt thoái. tiết độ sứ An Nguyên Tín (安元信) của Hậu Đường.
Sau khi Mã Hy Thanh nắm quyền cai quản quốc gia, ông ta bắt đầu tranh chấp với Cao Úc, nghi ngờ Cao Úc do những lời ly gián trước đây của Hậu Đường Trang Tông và Cao Quý Hưng. Năm 929, do Mã Hy Thanh nhiều lần đề nghị, Mã Ân lệnh cho Cao Úc trí sĩ. Cao Úc thất vọng và nói: "Ta xây gấp phủ ở Tây Sơn để quy lão, chế tử lớn dần và nay có thể cắn người", Mã Hy Thanh tức giận và giả lệnh Mã Ân để sát hại Cao Úc cùng gia tộc. Khi Mã Ân hay tin, ông đấm ngực kêu khóc thảm thiết, song không trừng phạt Mã Hy Thanh.
Tháng 10 ÂL năm Canh Dần, Mã Ân bị bệnh nằm trên giường, khiển sứ sang Hậu Đường xin truyền vị lại cho Mã Hy Thanh. Triều đình Hậu Đường không tin tưởng Mã Hy Thanh, nên ban đầu cho giữ chức Vũ An tiết độ sứ kiêm Thị trung. Ngày Kỷ Tị (10) tháng 11 (2 tháng 12 năm 930), Vương Ân qua đời, di mệnh chư tử phải truyền lại ngôi vị cho huynh đệ, còn để kiếm ở từ đường và nói ai làm trái mệnh sẽ bị giết. Sau đó, Mã Hy Thanh kế vị.
Gia đình
; Chính thất
- Mẹ của Mã Hy Chấn ;Thứ thất
- Viên phu nhân, sinh Mã Hy Thanh, Mã Hy Vượng
- Trần phu nhân, sinh Mã Hy Phạm
- Hoa phu nhân, sinh Mã Hy Cảo ; Con trai
- Trưởng từ Mã Hy Chấn (馬希振),, Vũ Thuận tiết độ sứ, xuất gia làm đạo sĩ
- Thứ tử Mã Hy Thanh (馬希聲899-932), Hành Dương vương
- Tam tử Mã Hy Ngạc (馬希萼), Cung Hiếu vương
- Tứ tử Mã Hy Phạm(馬希範, 899-947), Văn Chiêu vương
- Mã Hy Vượng (馬希旺), Thân tòng đô chỉ huy sứ, mất năm 933
- Mã Hy Cảo (馬希杲), Tĩnh Giang tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, bị Mã Hy Phạm độc sát năm 945
- Mã Hy Chiêm (馬希瞻), Tình Giang tiết độ sứ, mất năm 949
- Mã Hy Sùng (馬希崇), Sở vương
- Mã Hy Năng (馬希能), Tả đồn vệ đại tướng quân
- Mã Hy Quán (馬希貫), Thiên ngưu vệ đại tướng quân
- Mã Hy Tuấn (馬希濬), Tiết độ sứ hành quân tư Mã
- Mã Hy Tri (馬希知), Tiết độ sứ hành quân tư Mã
- Mã Hy Ẩn (馬希隱), Tĩnh Giang tiết độ sứ phó sứ
- Mã Hy Lãng (馬希朗), Tiết độ sứ hành quân tư Mã
- Tam thập ngũ tử Mã Hy Quảng (馬希廣), phế vương ; Con giái
- Mã hoàng hậu của Nam Hán Cao Tổ
- Mã thị, thê của Tiền Truyền Túc (錢傳璛)- nhi tử của Ngô Việt vương Tiền Lưu