✨Luật La Mã

Luật La Mã

Luật La Mã là hệ thống pháp luật của La Mã cổ đại, phát triển qua nghìn năm luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật Pháp điển Dân sự (529 CN) do Hoàng đế Đông La Mã Justinianus I ban hành. Luật La Mã tạo nên khuôn khổ cơ bản cho luật dân sự, hệ thống luật được sử dụng phổ biến nhất hiện nay.

Trong khi rất nhiều thành tựu của thời kỳ Cổ đại có nguồn gốc từ người Hy Lạp và chỉ được người La Mã tiếp nhận thì Luật La Mã là một sáng tạo nguyên thủy của người La Mã không có gương mẫu Hy Lạp. Thế nhưng việc sử dụng các khái niệm và mẫu mực lý luận từ triết học Hy Lạp trong phát triển của ngành luật học La Mã đã đóng một vai trò quan trọng.

Luật La Mã thời Cổ đại

Đầu tiên, Luật La Mã là luật được hình thành từ việc hành luật lâu năm theo tập quán không có luật viết. Một trong những tác phẩm luật ra đời sớm nhất là Bộ luật 12 bảng (tiếng La Tinh: lex duodecim tabularum), thành hình vào khoảng năm 450 trước Công Nguyên.

Ngành luật học La Mã đạt đến đỉnh cao nhất trong những thế kỷ đầu tiên của thời kỳ đế quốc (thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 3). Trong thời gian cuối của thời Cổ đại các học thuyết của ngành luật học cổ điển này có nguy cơ bị lãng quên. Để chống lại xu hướng đó Hoàng đế Justinian I đã ra lệnh sưu tập lại các bản văn luật cũ. Tác phẩm luật mà sau này được biết đến dưới tên Corpus Iuris Civilis bao gồm các quyển sách dạy về luật (công bố năm 533), tập san các bài văn của các luật gia La Mã (tiếng La Tinh: digesta hay pandectae), các đạo luật do hoàng đế ban hành (Codex Iustinianus, công bố năm 534) và các đạo luật đã được sửa đổi bổ sung (novellae).

Thời kỳ Trung Cổ và Hiện đại

Trong Đế quốc Byzantine bộ luật của Justinian vẫn là cơ sở cho việc thực thi luật pháp. Trong thế kỷ thứ 9 Hoàng đế Leo VI (886–912) cho ra đời bộ luật Byzantine mà về cơ bản là từ bản dịch ra tiếng Hy Lạp của Codex Iustinianus và các digesta.

Thế nhưng Luật La Mã đã đi vào lãng quên trong Tây Âu trong thời gian đầu của thời Trung cổ. Đặc biệt là người ta không còn biết đến các digesta nữa. Vào khoảng năm 1050 các bản văn này được tái khám phá. Bắt đầu từ thời điểm này các luật gia người Ý là những người đầu tiên tiếp tục dựa vào Luật La Mã mà trường luật của họ tại Bologna đã phát triển thành một trong những trường đại học đầu tiên của châu Âu. Những người bình chú dân luật (glossator) diễn giải và hiệu chỉnh lại các bài văn theo nhu cầu và phương pháp đương thời. Sau đấy những người bình luận (commentator) biên soạn các bài văn về luật thành thành những tác phẩm mang tính thực tiễn.

Khi chính thể chuyên chế và thời kỳ Khai sáng bắt đầu, luật tự nhiên lại chiếm vị trí nổi bật. Vào đầu thế kỷ 19, cùng với Trường phái Luật lịch sử mà người đại diện nổi bật là Friedrich Karl von Savigny, người ta lại bắt đầu quay lại với Luật La Mã. Ngay các bộ luật dân sự hiện đại - như Bộ luật Dân sự Đức và Bộ luật Dân sự Áo trong văn bản đầu tiên – cũng thành hình trước tiên là từ Luật La Mã.

Chủ thể

  • Chủ thể của luật La Mã rất hạn chế. Địa vị pháp lý của chủ thể là không bình đẳng. Chủ thể của luật La Mã trực tiếp tham gia vào các quan hệ mà bản thân của họ có các quyền và nghĩa vụ và đồng thời họ phải gánh chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.

    Năng lực pháp luật

  • Chủ thể của luật La Mã phải là:
  • Công dân La Mã
  • Phải là người tự do
  • Gia chủ (người chủ gia đình)

    Năng lực hành vi

  • Năng lực hành vi là năng lực của cá nhân, căn cứ vào độ tuổi và khả năng nhận thức. Luật La Mã quy định các mức độ năng lực hành vi:
  • Không có năng lực hành vi: là những người dưới 7 tuổi và những người điên. Những người này không được phép tham gia vào các quan hệ kể cả các quan hệ mang lại lợi ích cho họ ngoại trừ thừa kế.
  • Năng lực hành vi một phần: Nữ từ 7 đến 12 tuổi, nam từ 7 đến 14 tuổi và không bị điên: Những người này được tham gia vào tất cả giao dịch dân sự cho riêng mình, có lợi cho mình mà không phải gánh chịu nghĩa vụ. Nhưng đối với các giao dịch làm phát sinh hay chấm dứt một quyền tài sản thì phải có sự chứng nhận của người giám hộ.
  • Năng lực hành vi đầy đủ: Nữ đủ 12 tuổi, nam đủ 14 tuổi và không bị điên: Những người này có năng lực hành vi đầy đủ nhưng nếu họ vẫn con phụ thuộc vào người giám hộ thì đối với những quan hệ làm giảm tài sản tăng nghĩa vụ phải có sự chứng nhận của người giam hộ. Tất cả những người trên 25 tuổi được tham gia vào tất cả các quan hệ.

    Địa vị pháp lý của công dân La Mã

    Công dân La Mã là những người có quốc tịch La Mã. Quốc tịch La Mã được xác lập trong các trường hợp sau:

  • Được sinh ra từ công dân La Mã
  • Trả tự do cho nô lệ từ công dân La Mã
  • Tặng danh hiệu công dân La Mã cho người nước ngoài. Những người có quốc tích La Mã có đầy đủ các quyền tài sản, nhân thân ngoài các quyền chính trị. Quốc tịch La Mã có thể bị tước bỏ trong các trường hợp: Những người phạm trọng tội, những người bị kết án tù chung thân hay tử hình, những người bị xung làm nô lệ, bị bắt làm tù binh.
  • Người Latinh, người ngoại quốc: Người La tinh và người La Mã sống gần nhau, nhưng Nhà nước của người La Mã hình thành sớm hơn. Thế kỉ I TCN, chiến tranh giữa La Mã và người Phổ nổ ra, người La Mã và người La tinh cùng với ngoại quốc sống trên lãnh thổ đả liên kết với nhau. Dần dần sau đó, Nhà nước La Mã cho phép người La tinh và người ngoại quốc được gia nhập quốc tịch La Mã. Từ thế kỉ III, SCN nhà nước La Mã ban hành luật Jusgentium ap dụng cho tất ca mọi người.
  • Nông nô, tá điền: Về nguyên tắc, nông nô, tá điền là những người tự do,tá điền là những người có nhà cửa nhưng không có ruộng đất nên phải thuê đất và phải nộp thuế. Nô lệ là những người không có nhà cửa và cũng không có ruộng đất nên họ phải làm thuê cho chủ và phải hoàn toàn phụ thuộc vào chủ cũ, họ không được thưa kiện và phải cấp dưỡng cho chủ cũ trong trường hợp chủ cũ bị phá sản. Nông nô, tá điền về nguyên tắc bình đẳng với các chủ thể khác nhưng trên thực tế tham gia vào các quan hệ rất hạn chế vì họ không có tài sản. *Pháp nhân: Sự phát triển rực rỡ về kinh tế - văn hóa của người La Mã đã làm xuất hiện nhiều nghề nghiệp mới cùng với sự xuất hiện của đạo Thiên Chúa trên lãnh thổ La Mã, làm xuất hiện nhiều nhà thờ và các công trình khác như rạp hát, rạp xiếc, nhà trò, các tập đoàn mai táng, các tổ chức có tài sản riêng,nhân danh mình vào các quan hệ.

Vật quyền

1, Khái niệm: Tài sản hay vật (res) là những vật chất đáp ứng nhu cầu của con người và có ý nghĩa kinh tế - xã hội. Quyền tài sản là quyền yêu cầu chứ không phải là tài sản.

2, Phân loại:

a, Động sản và bất động sản.

  • Động sản (res mobiles) là những vật có thể bị di chuyển được trong không gian hoặc bản thân có thể tự di chuyển được mà không ảnh hưởng đến giá trị và suy suyển đặc tính của nó. ví dụ: gia súc, gia cầm.

  • Bất động sản (res immobiles) là những vật không thể di chuyển được trong không gian mà không ảnh hưởng đến giá trị và đặc tính sử dụng của vật, bất động sản cơ bản nhất là đất đai và những vật gắn chặt với nó.. Ví dụ: nhà cửa, cây cối. *, Ý nghĩa của sự phân loại này là: Để xây dựng phương pháp thủ đắc, đối với bất động sản thì việc di dời thì phải tuân theo trình tự luật định và phải có đăng ký quyền sở hữu. Sự phân loại này có ý nghĩa khi xuất hiện quy định super ficies solo cedit, theo đó, tất cả những gì có trên trái đất đều thuộc sở hữu của chủ sở hữu của mãnh đất cho dù chúng thuộc về ai đó.

b, Vật chia được và không chia được

  • Vật chia được (res divisible): là những vật khi phân chia thành các phần, các phần ấy không bị giảm giá trị tài sản chung và chức năng sử dụng.

  • Vật không chia được là những vật ngược lại khi chia thành các phần thì giá trị của chúng bị ảnh hưởng và suy giảm chức năng sử dụng.

c, Vật tiêu hao và không tiêu hao.

  • Vật tiêu hao là vật qua một lần sử dụng bị mất hoặc không giữ được hình dạng, số lượng, đặc tính, công dụng ban đầu.
  • Vật không tiêu hao là những vật qua nhiều lần sử về cơ bản không thay đổi về đặc tính, số lượng, công dụng ban đầu. *,Ý nghĩa của việc phân chia này: Nhằm xây dựng đối tượng cho các loại hợp đồng, vật tiêu hao không thể là đối tượng trong các quan hệ thuê, mượn.

d, Vật đặt định và vật thay thế:

  • Vật đặt định là những vật phân biệt với những vật khác về hình dáng, màu sắc, đặc tính, chức năng, những vật này là những vật ở thể đơn nhất về mặt tự nhiên hay do tính chất vật lý (hòn đá, chiếc cốc, ngôi nhà).

  • Vật thay thế là những vật tương tự nhau và hình dạng, màu sắc, đặc tính, công dụng. *,Ý nghĩa của sự phân loại: Liên quan đến nghĩa vụ giao tài sản. Đối với những vật đặt định thì phải giao đúng vật đó, còn đối với những vật thay thế, chúng có thể thay thế nhau nhưng với điều kiện cùng chất liệu. *Khái niệm và phân loại vật quyền: 1, Khái niệm:

  • Vật quyền là quyền của một chủ thể bằng hành vi của mình tác động lên tài sản theo ý chí của mình mà không phụ thuộc vào người khác để nhằm thỏa mãn lợi ích của cá nhân mình.

  • Trái qưyền là quyền của chủ thể bằng hành vi của người khác để thỏa mãn lợi ích của bản thân mình.

+, Phân loại vật quyền:

  • Quyền sở hữu

  • Quyền chiếm hữu

  • Quyền đối với tài sản của người khác

a, Quyền chiếm hữu: Chiếm hữu là nắm giữ, chi phối tài sản theo ý chí của mình mà không phụ thuộc vào ý chí người khác.Coi tài sản đó như là của mình. Chiếm hữu bao gồm:

  • Chiếm hữu hợp pháp
  • Chiếm hữu bất hợp pháp.
  • Chiếm hữu bất hợp pháp được chia thành:
  • Bất hợp pháp ngay tình: Việc chiếm hữu là bất hợp pháp nhưng người chiếm hữu không biết hoặc không thể biết.
  • Bất hợp pháp không ngay tình: Việc chiếm hữu là bất hợp pháp, người chiếm hữu biết hoặc buộc phải biết việc chiếm hữu tài sản đó là bất hợp pháp nhưng vẫn có tình chiếm hữu.

b, Quyền đối với tài sản của người khác:

  • Khái niệm: là quyền của chủ thể không phải là chủ sở hữu của tài nhưng có quyền sử dụng và hưởng những lợi ích mà tài sản đó mang lại.
  • Phân loại:
  • Quyền dụng ích đất đai (praediorum) đất đai ở đây bao gồm đất nông nghiệp và đất ở, các quyền này bao gồm: quyền có lối đi lại, qyền chăn dắt gia súc đi qua, quyền dẫn nước, thoát nước, quyền được lấy ánh sáng không khí, quyền được lợi dụng nhà của người khác để xây nhà mình, quyền được sử dụng bóng râm của người khác, quyền được sang đất của người khác để thu lượm hoa quả.
  • Quyền dụng ích cá nhân (pesonarum) hay quyền sử dụng tài sản của người khác suốt đời, các bên có thể thỏa thuận một bên có thể sử dụng tài sản cho đến chết, người đó được hưởng hoa lợi, lợi tức do tài sản mang lại nhưng không được để lại thửa kế. Pháp luật cũng quy định một số người không có quyền sở hữu tài sản nhưng có quyền sử dụng tài sản đó cho đến chết.
👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Luật La Mã** là hệ thống pháp luật của La Mã cổ đại, phát triển qua nghìn năm luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật _Pháp điển Dân sự_
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**La Mã cổ đại** là nền văn
**Nền văn minh La Mã cổ đại** đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. **Roma** ngày nay trước kia
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Viện nguyên lão** là một tổ chức chính trị ở La Mã cổ đại. Đây là một tổ chức lâu dài nhất trong lịch sử La Mã, được thành lập trong những ngày đầu tiên
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Hiến pháp Cộng hòa La Mã** là một tập hợp các quy phạm xã hội và tập tục chưa được pháp điển hóa, cùng nhiều loại luật La Mã thành văn khác, tạo nên khung
Đế chế La Mã dưới thời [[Augustus Caesar (31 TCN - 6 SCN). Vàng: 31 TCN. Xanh thẫm 31-19 TCN, Xanh 19-9 TCN, Xanh nhạt 9-6 TCN. Màu hoa cà: Các nước chư hầu]] Đế
**Vua La Mã** (tiếng Latin: _Rex_, _Regis_) là danh hiệu người đứng đầu nền quân chủ La Mã ở thời kỳ đầu của văn minh La Mã cổ đại. Các bản ghi của người La
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Trường luật Beirut** là một trung tâm giáo dục luật La Mã được La Mã thành lập tại Beirut, Liban. Được sự bảo trợ của các hoàng đế La Mã, trường đã trở thành một
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Lính Lê dương La Mã** là những người lính chuyên nghiệp trong quân đội La Mã cổ đại sau những cải cách của Marius năm 107 TCN. **Lính Lê dương La Mã** phải là công
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
Thuật ngữ "**Lịch La Mã**" dùng để chỉ tất cả các loại lịch do người La Mã sáng tạo và sử dụng cho tới trước thời kỳ Julius Caesar (năm 45 trước Công Nguyên). ##
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Cuộc chinh phục Hispania của La Mã** là một quá trình được bắt đầu bằng việc Cộng hòa La Mã chiếm giữ các vùng đất của người Carthage ở phía nam và phía đông vào
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
Sự khuếch trướng của Kitô giáo từ gốc gác mơ hồ của nó vào khoảng năm 40, bấy giờ mới có ít hơn 1.000 tín đồ, thành tôn giáo lớn nhất của toàn bộ Đế
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
nhỏ| Bức tranh _Lời cầu nguyện cuối cùng của những người tuẫn đạo Cơ Đốc giáo_ do [[Jean-Léon Gérôme vẽ vào năm 1883.]] **Đế quốc La Mã** **đàn áp Cơ Đốc giáo** (chữ Anh: _Persecution
**La Mã hóa** hoặc **Latinh hóa** (tiếng Anh: _Romanization_ hay _Latinization_) là một thuật ngữ về ý nghĩa văn hóa và lịch sử đều biểu thị quá trình tiếp nhận nền văn hóa La Mã
thumb|[[Vương miện (huy hiệu)|Heraldic crown của Thân vương trong Đế chế La Mã Thần thánh]] thumb|Áo choàng và vương miện của Thân vương trong huy hiệu hoàng gia **Thân vương của Đế chế La Mã
thumb|[[Tranh khảm La Mã|Tranh khảm (220–250) được tìm thấy tại El Djem, Tunisia (Phi Lợi Gia thuộc La Mã). Trên đây viết dòng chữ Latinh "Im đi! Để lũ trâu ngủ" _(Silentiu[m] dormiant tauri)_ và
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** đã được ghi chép lại khá sớm ở Hy Lạp và La Mã, ngay từ thời cổ đại. Một số nhà tư tưởng Hy Lạp và La Mã cổ
**Đô la Mã Lai và Borneo thuộc Anh** là tiền tệ hợp pháp của Mã Lai, thuộc địa Singapore (cho đến năm 1963, khi nó được sáp nhập với Malaysia sớm để trở thành độc
**Pháp luật** là một tập hợp các quy tắc được tạo ra và có thể thi hành bởi các cơ sở xã hội hoặc chính phủ để điều chỉnh hành vi, với định nghĩa chính
**Bộ Luật Napoleon** (tiếng Pháp: **_Code Napoléon_**; chính thức là **Code civil des Français**, gọi là **(le) Code civil**) là bộ dân luật Pháp ban hành năm 1804 trong thời Tam Đầu Chế Pháp. Bộ
**Dân luật** là một hệ thống pháp luật trên thế giới có nguồn gốc từ châu Âu và được áp dụng tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hệ thống dân luật được
nhỏ|Tòa Hoàng gia, biểu tượng cho Hệ thống pháp luật Anh quốc **Pháp luật Anh** là hệ thống pháp luật được áp dụng cho toàn xứ Anh và xứ Wales được xây dựng cơ sở
Một phiên tòa Công lý vào thế kỷ XIX **Luật Công bình** hay **Luật Công lý** (_Equity Law_) là một bộ phận trong hệ thống pháp luật Anh xuất hiện vào thế kỷ XVI, cùng
**Luật công** (, tiếng Anh: _public law_), hay còn gọi là **Công pháp**, là một phần của luật pháp mà cai quản quan hệ giữa cá nhân và chính phủ, và những quan hệ giữa
**Luật Scotland** là hệ thống pháp lý của Scotland. Nó là một hệ thống pháp luật hỗn hợp hoặc hỗn hợp có chứa các yếu tố luật châu Âu lục địa và thông luật, có
thumb|Bản đồ hệ thống pháp luật thế giới **Luật so sánh** hay **Luật học so sánh** là một môn khoa học, một phương pháp tiếp cận nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật
**Pháp điển Dân sự** (_Corpus Juris Civilis_) hay còn gọi là **Bộ luật Justinianus** là tên gọi hiện đại của một tập hợp các công trình soạn thảo tư pháp, được ban bố từ năm
**Luật tư** (, tiếng Pháp: _Droit privé_), hay còn gọi là **Tư pháp** (私法, tránh nhầm lẫn với tư pháp 司法), là một phần của Hệ thống pháp luật Dân luật, luật liên quan đến
**Luật học** là một thuật ngữ để chỉ chung các ngành khoa học nghiên cứu về pháp luật. Một thuật ngữ có nghĩa tương đương với thuật ngữ này là khoa học pháp lý. Tuy
Chúng ta thường quá quen thuộc với câu nói Vạn sự khởi đầu nan, gian nan bắt đầu nản. Thực chất, việc có vượt qua được sự nản chí hay không phụ thuộc vào sức
Chúng ta thường quá quen thuộc với câu nói Vạn sự khởi đầu nan, gian nan bắt đầu nản. Thực chất, việc có vượt qua được sự nản chí hay không phụ thuộc vào sức
Kỷ Luật Là Sức Mạnh Chúng ta thường quá quen thuộc với câu nói Vạn sự khởi đầu nan, gian nan bắt đầu nản. Thực chất, việc có vượt qua được sự nản chí hay
Kỷ Luật Là Sức Mạnh ------------ Chúng ta thường quá quen thuộc với câu nói Vạn sự khởi đầu nan, gian nan bắt đầu nản. Thực chất, việc có vượt qua được sự nản chí