✨Luật Công bình

Luật Công bình

Một phiên tòa Công lý vào thế kỷ XIX Luật Công bình hay Luật Công lý (Equity Law) là một bộ phận trong hệ thống pháp luật Anh xuất hiện vào thế kỷ XVI, cùng tồn tại song song với hệ thống Thông luật, với đặc trưng là các nguyên lý xây dựng và áp dụng luật chủ yếu được dựa trên yếu tố lẽ công bằng, lẽ phải và công lý. Luật Công lý ra đời trên bối cảnh Thông luật, hệ thống pháp luật chính của nước Anh tại bối cảnh đó đang gặp nhiều bất cập, nhất là trong việc giải quyết các thủ tục tố tụng. Sự hình thành và phát triển của Luật Công lý nhằm sửa đổi và bổ sung cho Thông luật và hoàn thiện Thông luật chứ không nhằm mục đích thay thế nó. Đến nay, nó là một trong hai bộ phận chính của hệ thống pháp luật Anh.

Sự ra đời

Những bất cập

Giai đoạn thế kỷ XVI và XVII ở Anh, lúc này tình hình kinh tế xã hội phát triển, tự do kinh tế, tự do mậu dịch được phát triển, nhiều tranh chấp mới phát sinh giữa các thương nhân nhưng các Tòa án hoàng gia không thể giải quyết thấu đáo các tranh chấp này, mặt khác các quy định của thông luật không phù hợp để điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh dẫn đến thông luật rơi vào tình trạng khủng hoảng.

Vào thế kỉ thứ XIII, khi mới ra đời Thông luật đã phát huy tác dụng, là một luật rất mềm dẻo vì thẩm phán tự sáng tạo ra các quy phạm pháp luật để giải quyết những vấn đề, vụ việc đưa đến tòa dựa trên các nguyên tắc chung đã được thỏa thuận giữa các thẩm phán.

Đến cuối thế kỉ XIV, học thuyết tiền lệ pháp được tuân thủ và áp dụng trong các Tòa án Hoàng gia của Anh. Học thuyết tiền lệ pháp là học thuyết mà theo đó các thẩm phán khi giải quyết các vụ việc tại thời điểm hiện tại, phải căn cứ những phán quyết, những quy định trong quá khứ, trong đó có án lệ.

Trong hệ thống pháp luật Anh, một nguyên tắc ra đời từ khoảng thế kỉ XIII có tên Latinh là "stare decisis" (Tiền lệ phải được tôn trọng) có nghĩa là tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật đã được thiết lập trong án lệ. Theo nguyên tắc này,các Tòa án cấp dưới chịu sự ràng buộc bởi các nguyên tắc pháp lý do Tòa án cấp trên sáng tạo ra được ghi nhận trong các bản án trong quá trình xét xử các vụ việc trong quá khứ.

Vì sự ràng buộc của học thuyết tiền lệ pháp làm cho Thông luật (Common Law) trở lên cứng nhắc, bởi vì đến một thời điểm thẩm phán không còn đủ tự do để phát triển các quy phạm pháp luật giải quyết những vấn đề đem đến tòa nữa. Khi tình tiết vụ việc khác đi thì các thẩm phán không thể áp dụng tiền lệ pháp cũ nữa nhưng họ cũng không có khả năng sáng tạo ra tiền lệ pháp mới vì bị bó buộc trong khuôn khổ của học thuyết tiền lệ pháp.

Hệ thống trát

Về mặt thủ tục, bản thân Thông luật được xây dựng trên thủ tục tố tụng khá phức tạp, đặc biệt trong mối quan hệ với hệ thống trát. Trát được sử dụng như một loại giấy thông hành do vua cấp để bên nguyên có thể bước qua cửa Tòa án Hoàng gia, tiếp cận với công lý nhằm giải quyết những oan khuất của mình. Mỗi loại khiếu kiện sẽ có một loại trát tương ứng, vì vậy, tùy thuộc vào bản chất của việc khiếu kiện mà bên nguyên cần giành được loại trát phù hợp mới hi vọng đơn khiếu kiện của mình được Tòa án Hoàng gia thụ lý và giải quyết.

Bước sang thế kỉ XV, thủ tục tố tụng ngày càng bị chi phối mạnh bởi hệ thống trát, do đó, thủ tục tố tụng thường được coi trọng hơn cả quyền lợi đang bị tranh chấp trong vụ kiện. Nếu đơn khiếu kiện không rơi vào một trong những vụ việc đã có trát lưu hành, bên nguyên sẽ mất quyền khởi kiện, hoặc nếu bên nguyên giành được trát nhưng trát đó không phù hợp với bản chất của vụ kiện, bên nguyên cũng bị tòa bác đơn.

Hình thành

Do sự cứng nhắc của Thông luật, đặc biệt trong thủ tục xét xử, bên nguyên đơn trong vụ việc tranh chấp thường tiếp tục khiếu kiện lên vua nhằm tìm khiến sự trợ giúp đặc biệt mang tính chất phúc thẩm. Nhiều người khởi kiện không thỏa mãn với phán quyết của các Tòa án hoàng gia mà làm đơn thỉnh cầu lên nhà vua. Họ coi nhà vua là người có quyền lực tối cao và là biểu tượng của Công lý, lẽ công bằng. Lẽ tất nhiên, nhà vua không thể tự mình giải quyết, phân xử hết tất cả những thỉnh cầu của thần dân ông ta mà những thỉnh cầu này gửi lên càng ngày càng nhiều, tranh chấp càng ngày càng đa dạng, phức tạp, chưa kể là có những đơn thỉnh cầu, những tranh chấp vặt vãnh.

Vua thường thông qua viên Đại Chưởng ấn hay còn gọi là Đại Pháp quan hoặc Ngài Đổng lý Văn phòng (Lord Chancellor) là một công chức của Tòa án đồng thời hầu cận của mình đóng vai trò như một pháp quan để giải quyết những đơn kiện loại này. Dân dần nhà vua giao cho Đại chưởng ấn giải quyết luôn những vụ việc và giao quyền cho ông ta. Điều này dẫn đến hệ lụy là Văn phòng đại pháp quan đã dần phát triển thành Tòa đại pháp.

Trong quá trình giải quyết, Đại chưởng ấn đưa ra những giải pháp pháp lý rất phù hợp, hiệu quả vì thường viện dẫn vào "công lý, lẽ phải và tình yêu thương của Chúa trời" dẫn đến số lượng đơn thỉnh cầu tăng lên, khối lượng công việc ngày càng lớn, đòi hỏi phải có một nhân sự và hệ thống thể chế, thiết chế tương đương vì vậy vua ra quyết định thành lập tòa án công bằng. Đầu thế kỷ 16, các quyết định của Tòa công bằng hình thành một hệ thống các quy định pháp lý và Trong quá trình sử dụng công lý để giải quyết các vụ việc, cùng với thời gian, các phán quyết của Đại pháp quan đã phát triển thành tập hợp những quy phạm đặc biệt, được nhắc đến dưới danh nghĩa "equity" hay Luật Công bình và hình thành một hệ thống pháp luật thứ hai gọi là luật công bằng. Học thuyết về Luật công bình (Equity law) mang nhiều yếu tố của Luật La Mã vì các Đại Chưởng ấn thường là các mục sư bị ảnh hưởng của Luật Giáo hội (cannon law)- một loại luật có cơ sở gần gũi với luật La Mã.

Đặc trưng

Luật Công bình có nguồn gốc coi nhà vua như biểu tượng của công lý, tất cả các vấn đề đều được gửi đơn thỉnh cầu lên vua Luật công bằng xuất hiện bên cạnh luật chung nhưng không làm thay đổi luật chung và không vô hiệu hoá các quy định của Luật chung (tức thông luật).

So với Thông luật thì Luật Công bình có một số đặc điểm như các quy phạm thể hiện tính đạo đức, linh hoạt, mềm dẻo và ảnh hưởng nhiều bởi Luật Giáo hội (Do viên quan Đại Chưởng ấn là người đi đạo), các quy định được thiết lập trên nguyên lý "lẽ phải và tình yêu thương của Chúa trời". Ngoài ra hoạt động xét xử của tòa công bình thể hiện tính chất cá nhân, chủ quan. Mặt khác, các thủ tục pháp lý, thủ tục xét xử đa dạng, đơn giản hơn so với Thông luật (không bị ràng buộc nặng nề bởi hệ thống trát).

Luật Công bình ra đời đã khắc phục được những bất cập của Thông luật, giúp giải quyết được các vụ việc không được giải quyết hoặc chưa được giải quyết tại Tòa án Hoàng gia. Với Luật Công bình, những vụ khiếu kiện đều được giải quyết. Trong quá trình xét xử tại tòa, Đại pháp quan không áp dụng các án lệ của Tòa án Hoàng gia, luật Đại pháp quan sử dụng là dựa vào lẽ phải. Nói đến lẽ phải tức là phải có người đúng, người sai rõ ràng nên các vụ việc đưa ra thường được thụ lý giải quyết.

Tòa đại pháp mở đầu quá trình tố tụng không phải bằng trát mà bằng đơn thỉnh cầu, không có mẫu in sẵn, viết bằng thứ tiếng Pháp dùng ở Anh thời trung cổ. Người thỉnh cầu nêu rõ lý do khiếu nại và khẩn cầu sự trợ giúp. Đơn thỉnh cầu phải được gửi kèm theo vật làm tin mới có thể khởi kiện. Với đơn viết tay như thế, mọi oan ức của người dân có thể nhờ công lý mà được giải quyết, tránh được tình trạng như việc sử dụng hệ thống trát trong Tòa án Hoàng gia.

Tại Tòa đại pháp, Đại pháp quan xét xử dựa vào nội dung vụ việc và quyền lợi của các bên tranh chấp, còn tại Tòa án Hoàng gia thì lại rất coi trọng chứng cứ. Trong quá trình xét xử, Đại pháp quan tiến hành thẩm vấn nhằm phát hiện tình trạng lương tâm của bị đơn để gột rửa lương tâm cho bị đơn khi cần thiết. Bên bị sẽ phải trả lời những câu hỏi trên cơ sở tuyên thệ do Đại pháp quan đưa ra. Những câu hỏi thông minh của Đại pháp quan buộc bị đơn tự khai ra các tình tiết của vụ việc, trên cơ sở đó có thể khép bị đơn vào một tội, một lỗi nào đó. Đây là thủ tục tố tụng đặc biệt không hề được sử dụng tại Tòa án Hoàng gia ở cùng thời.

Giải pháp được đưa ra bởi Tòa đại pháp rất khác so với giải pháp đưa ra bởi Tòa án Hoàng gia. Đại pháp quan có thể phát lệnh dưới hình thức tuyên bố quyền của bên nguyên hoặc dưới dạng lệnh buộc bên bị (bên có hành vi gây tổn hại) phải thực hiện hành vi nào đó hoặc cấm bên bị thực hiện hành vi xâm phạm tới lợi ích của bên nguyên. Trong khi đó, Tòa án Hoàng gia chỉ có thể ra phán quyết buộc bên bị có hành vi gây thiệt hại cho bên nguyên phải bồi thường thiệt hại. Từ thực tế này có thể thấy Tòa đại pháp có quyền lực lớn hơn Tòa án Hoàng gia.

Đóng góp to lớn của Luật Công bình đối với hệ thống pháp luật Anh là đã tạo ra chế định ủy thác. Theo nguyên tắc của Thông luật, đối với việc ủy thác đất đai, sau khi đã sang tên đất, người ủy thác không còn quyền sử dụng hợp pháp đối với mảnh đất đã ủy thác, mà phần đất đó đất thuộc về quyền sử dụng hợp pháp của người được ủy thác, quyền sử dụng đất của người được ủy thác chỉ bị giới hạn bởi quy phạm đạo đức chứ không bị giới hạn bởi quy phạm pháp luật. Nên khi có tranh chấp xảy ra thì Tòa án Hoàng gia chưa bao giờ giải quyết được.

Nhưng tại Tòa đại pháp, trước những vụ việc này Đại pháp quan cho rằng việc người được ủy thác phủ nhận quyền đòi lại đất của người ủy thác là bất công, trái với giáo lý và lương tâm và rằng người được ủy thác chỉ giữ mảnh đất đó vì lợi ích của người ủy thác và sẽ phải trả lại cho người ủy thác khi có yêu cầu. Vì vậy, Đại pháp quan thường ra phán quyết cưỡng chế thi hành những điều kiện theo đó hợp đồng ủy thác được thiết lập để buộc bên được ủy thác thực hiện những cam kết của mình.

Định hình

Việc hình thành Luật Công bình dẫn đến một hiện trạng tại nước Anh bấy giờ là sự tồn tại song song hai hệ thống tòa – Tòa thông luật và Tòa công bình- dẫn đến sự xung đột về thẩm quyền và "tính hai mặt trong thủ tục tố tụng Anh". Tính hai mặt này là một mặt vừa đặt nặng tính thủ tục và chứng cứ nhưng mặt khác lại bỏ qua tất cả các thủ tục và không coi trọng chứng cứ bằng lẽ phải, một mặt vừa phải tuân thủ hệ thống các án lệ đã có từ trước nhưng mặt khác chỉ phải tuân thủ theo lẽ phải và những phán quyết chủ quan.

Lúc này ở Anh có 3 hệ thống toà án gây nên sự chồng chéo và mâu thuẫn (Hoàng gia, Công bằng và địa phương), ngoài ra các thủ tục tố tụng ở Anh quá phức tạp, mỗi vụ đòi hỏi phải có một loại trát riêng. Và đến cuối thế kỷ XIX ở Anh đã có cuộc cải cách hệ thống toà án và thủ tục tố tụng do sau chiến tranh Anh – Pháp, nước Anh bị lâm vào tình trạng khủng hoảng đòi hỏi phải có cải cách toàn diện.

Điều này đòi hỏi phải có cuộc cải cách pháp luật. Việc cải cách này xuết hiện từ tư tưởng của Jeremy Bantan, ông cho rằng hệ thống pháp luật của Anh mang tính lịch sử, ngẫu nhiên nhiều hơn là tính hợp lý và đề xuất pháp điển hoá ở Anh lúc bấy giờ, ban đầu tư tưởng cải cách này không được ủng hộ của các luật sư, đến cuối thế kỷ XIX đã được chấp nhận và trở thành cơ sở cho việc cải cách pháp luật ở Anh. Mục đích cải cách là hợp nhất hai hệ thống tòa làm một và xóa bỏ tính hai mặt trong thủ tục tố tụng, thống nhất về một mối. Kết quả cải cách là đã hợp nhất hai hệ thống tòa án, xóa bỏ tính hai mặt trong tố tụng. Qua đó khẳng định vị trí của Luật Công bình từ vị trí là bộ phận bổ sung cho Thông luật trở nên bộ phận pháp luật bình đẳng với Thông luật và là một trong hai hệ thống pháp luật trong pháp luật Anh.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Một phiên tòa Công lý vào thế kỷ XIX **Luật Công bình** hay **Luật Công lý** (_Equity Law_) là một bộ phận trong hệ thống pháp luật Anh xuất hiện vào thế kỷ XVI, cùng
**Công binh Lục quân Hoa Kỳ** (_United States Army Corps of Engineers_ hay viết tắt là **_USACE_**) là một cơ quan liên bang và là một bộ tư lệnh chính yếu của Lục quân Hoa
**Luật công** (, tiếng Anh: _public law_), hay còn gọi là **Công pháp**, là một phần của luật pháp mà cai quản quan hệ giữa cá nhân và chính phủ, và những quan hệ giữa
**Đạo luật Công nhận Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam năm 2017** () là đạo luật quy định rằng quốc kỳ Hoa Kỳ phải được trưng bày "đặc biệt vào Ngày Cựu chiến binh
nhỏ|Tòa Hoàng gia, biểu tượng cho Hệ thống pháp luật Anh quốc **Pháp luật Anh** là hệ thống pháp luật được áp dụng cho toàn xứ Anh và xứ Wales được xây dựng cơ sở
Bình Luận Luật Công Chứng Năm 2014 Tác giả CCV. TUẤN ĐẠO THANH - CCV. PHẠM THU HẰNG Nhà phát hành NXB Tư Pháp NXB Tư Pháp Khổ sách 16x24cm Số trang 536 trang Phát
**Đạo luật Công dân (Sửa đổi) năm 2019** ( viết tắt **CAA**), của Quốc hội Ấn Độ đã sửa đổi Đạo luật Công dân năm 1955 cung cấp một con đường đến quốc tịch Ấn
**Lưu Bình Nhưỡng** (sinh ngày 4 tháng 2 năm 1963) là một tiến sĩ Luật, giảng viên đại học, chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa
**Ireland** (phiên âm: "Ai-len"; phát âm tiếng Anh: ; ), hay còn được gọi chi tiết là **Cộng hòa Ireland** (, ), là một quốc gia ở tây bắc châu Âu, chiếm khoảng 5/6 diện
**Luật Bình đẳng giới** là luật mang số 73/2006/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XII thông qua vào ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu
**Chế định hợp đồng trong Luật dân sự Việt Nam** là tập hợp các quy phạm pháp luật dân sự quy định về **hợp đồng**. Đây là một chế định quan trọng, trung tâm trong
**Pháp luật** là một tập hợp các quy tắc được tạo ra và có thể thi hành bởi các cơ sở xã hội hoặc chính phủ để điều chỉnh hành vi, với định nghĩa chính
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
**Pháp luật quốc tế** là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, được các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận tạo dựng nên, trên cơ sở
**Luật La Mã** là hệ thống pháp luật của La Mã cổ đại, phát triển qua nghìn năm luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật _Pháp điển Dân sự_
**Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina** hoặc **Cộng hoà Dân tộc Ukraina** (; viết tắt ), trong một khoảng thời gian tồn tại gọi là **tỉnh miền Tây của Cộng hoà Nhân dân Ukraina** (
**Luật Việc làm 2013** (số ký hiệu: , tên quốc tế: _2013 Law on Employment_) là văn bản quy phạm pháp luật quy định về lĩnh vực việc làm của Việt Nam, là đạo luật
**Công an nhân dân Việt Nam** là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là lực lượng
thumb | 220x124px | right | Luật hình sự thời [[nhà Nguyễn được viết bằng chữ Hán]] Khái niệm **luật hình sự** (Tiếng Anh: _criminal law_) nói về những luật có chung tính chất là
**Quân cảnh** (1959 - 1975) là một Binh chủng trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Binh chủng này được thành lập để thừa hành và thực thi quân
**Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc** (tiếng Hoa:中国天主教爱国会, bính âm: _Zhōngguó Tiānzhǔjiào Àiguó Huì_, âm Hán-Việt: _Trung Quốc Thiên Chúa giáo Ái quốc Hội_; viết tắt theo tiếng Anh là **CPA**, **CPCA**, hoặc **CCPA**)
nhỏ|Theo truyền thống, người Công giáo ăn cá và một số loài [[hải sản vào ngày thứ Sáu hàng tuần vì luật kiêng thịt buộc không được ăn thịt của loài có vú và loài
**Luật tư** (, tiếng Pháp: _Droit privé_), hay còn gọi là **Tư pháp** (私法, tránh nhầm lẫn với tư pháp 司法), là một phần của Hệ thống pháp luật Dân luật, luật liên quan đến
**Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (gọi tắt: **Chủ tịch nước**) là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là người đứng đầu
**Luật Cán bộ, Công chức năm 2008** là đạo luật mang số 22/2008/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13
thumb|upright|Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam **Ngày Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam Quốc gia** (tiếng Anh: _National Vietnam War Veterans Day_) được tổ chức hàng năm vào ngày 29 tháng 3 tại
nhỏ|phải|Họa phẩm một công chứng viên vào thế kỷ XVI-XVII **Công chứng viên** là nhà chuyên môn về pháp luật, có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, được Bộ trưởng Bộ Tư
**Việc bổ nhiệm các giám mục trong Giáo hội Công giáo** là một quá trình phức tạp. Các giám mục có thâm niên, các tín hữu, sứ thần Tòa Thánh, các thành viên khác nhau
**Nguyễn Phúc Bính** (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong **Định Viễn Quận Vương** (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
Tất cả tổ chức đảng và đảng viên bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều
**Trường Đại học Công đoàn** (**ĐHCĐ)** - tên tiếng Anh: **Trade Union University (TUU)** là một Trường Đại học Công lập lâu đời, định hướng nghiên cứu, đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực và
**Luật Hôn nhân và Gia đình** là một đạo luật của Việt Nam được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I, kỳ họp thứ 11 thông qua vào ngày 19 tháng
nhỏ|phải|Một hãng luật ở Mỹ nhỏ|phải|Một hãng luật hợp danh ở Mỹ **Hãng luật** (_Law firm_) hay **công ty luật** là một thực thể kinh doanh được thành lập từ một hoặc nhiều luật sư
**Dự án Luật Chuyển đổi giới tính** là một dự án luật trong nhiệm kỳ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XV nhằm quy định cụ thể việc chuyển
**Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Lugansk** là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa nhân dân Lugansk (được công nhận hạn chế) và nắm quyền lực hành pháp. ## Ứng cử và
nhỏ|350x350px **Luật thi hành án giải thích số 748 Viện Tư Pháp**, gọi tắt **Luật thi hành số 748**, là một luật chuyên môn về hôn nhân cùng giới ở Trung Hoa Dân Quốc. Mục
**Công chức** tại Việt Nam, theo quy định của Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2008 và sửa đổi, bổ sung
Bản bằng [[tre thời Càn Long.]] **_Tôn Tử binh pháp_** hay _Binh pháp Ngô Tôn Tử_ là sách chiến lược chiến thuật chữ Hán do Tôn Vũ soạn thảo vào năm 512 TCN thời Xuân
**Công ty trách nhiệm hữu hạn (**tiếng Anh: **limited liability company-** viết tắt: **LLC)** là hình thức của một công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân ở Hoa Kỳ. Đó là một cấu trúc
**Công quốc Parma**, tên gọi chính thức là **Công quốc Parma và Piacenza** (; ) là một công quốc lịch sử trên Bán đảo Ý, được thành lập vào năm 1545, toạ lạc ở miền
**Bộ Công an nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam** là cơ quan công quyền trực thuộc Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an ninh trật
**Công ty Umbrella** là một công ty kỹ nghệ sinh dược phẩm hư cấu xuất hiện trong loạt game kinh dị-sống sót Resident Evil. Khi trò chơi này được chuyển thể thành tác phẩm điện
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Công nghiệp Quốc phòng** là bộ phận của kinh tế quân sự, có chức năng sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị và sản xuất các vật tư, trang bị hậu cần cần thiết
**** là một quốc gia độc lập tồn tại trong một thời gian ngắn do những cựu thần cùng quan chức của chính quyền Mạc phủ Tokugawa thành lập vào ngày 27 tháng 1 năm
**Tuyên bố chủ quyền nhà nước của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** () là một hành động chính trị của Nga Xô viết (CHXHCN Xô viết LB Nga), sau
**Quyết định luận công nghệ** là một lý thuyết giản hóa luận mà giả định rằng công nghệ của xã hội thúc đẩy sự phát triển cấu trúc xã hội và các giá trị văn
Trang này trình bày các thuật ngữ được sử dụng trong bối cảnh Giáo hội Công giáo. ## A * **Ân điển** ## B * **Ba Ngôi Thiên Chúa** * **Bàn thờ** * **** *
phải|[[Nữ thần Công lý mô tả công lý bằng ba biểu tượng: một thanh kiếm tượng trưng cho sức mạnh cưỡng chế của tòa án, 2 tay cầm 2 quả cân thể hiện cho sự
Máy xúc, khai thác mỏ than lộ thiên **Công nghiệp nặng** là lĩnh vực công nghiệp sử dụng nhiều tư bản, đối ngược với công nghiệp nhẹ là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động.