Một đoạn Trường lũy Quảng Ngãi
Trường Lũy Quảng Ngãi, Trường Lũy Quảng Ngãi-Bình Định hay Tĩnh Man trường lũy (gọi theo sử Nhà Nguyễn), gọi tắt là Trường Lũy, là một công trình kiến trúc lớn, đa dạng, nhiều phần được làm bằng đá hoặc đất, chạy dọc theo đường thượng đạo xưa từ Quảng Ngãi đến Bình Định, bắt đầu từ huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đến huyện An Lão (Bình Định) thuộc Việt Nam. Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì đây là một trường lũy dài nhất Đông Nam Á.
Lịch sử
Theo các nhà nghiên cứu gần đây, trong đó có GS. Phan Huy Lê, thì lũy cổ khởi xây từ thế kỷ 17 thời các chúa Nguyễn với tính cách phòng thủ quân sự. Sang thế kỷ sau, vì nhiều nguyên nhân, một số dân tộc ở Đá Vách (Quảng Ngãi, phần đông là tộc người H’rê) đã nổi lên chống đối triều đình. Đến triều Gia Long thì cuộc xung đột càng quyết liệt hơn. Sách Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên) chép:
:''Tháng 4 năm Quý Hợi (1803), Lê Văn Duyệt phá tan mọi Đá Vách. Ngài (Gia Long) hạ chiếu khen thưởng.
Mặc dù phải dùng biện pháp quân sự, triều đình vẫn không sao tiêu diệt được. Suốt các triều đại kế tiếp từ Minh Mệnh đến Tự Đức quan quân phải hao binh tướng đánh dẹp. Mãi cho đến khi thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, vùng Đá Vách vẫn có nhiều biến loạn. Triều đình phải dùng cả thế công lẫn thế thủ nên một mặt phái quân lên tiễu trừ, mặt kia thì củng cố và khuếch trương thêm dãy lũy cũ.
Thư tịch chính sử
Chân dung Tả quân [[Lê Văn Duyệt trên tờ 100 đồng (tiền Việt Nam Cộng hòa) in năm 1966. Ông là người có công lớn trong việc bồi đắp Trường Lũy Quảng Ngãi.]]
Theo sử nhà Nguyễn thì để ngăn nguy cơ "bị uy hiếp, tràn lấn của ác man Đá Vách", kể từ năm Gia Long thứ 18 (1819), Tả quân Lê Văn Duyệt đã cho đắp "lũy Bình Man." Sách Vũ Man tạp lục thư (in năm 1898 triều Thành Thái) của Tĩnh Man tiễu phủ sứ Nguyễn Tấn chép rõ:
:''Năm Gia Long thứ 18 (1819), Lê Văn Duyệt tâu xin xây Trường lũy, nam giáp ranh giới huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định; bắc giáp ranh giới huyện Hà Đông (thuộc phủ Tam Kỳ), tỉnh Quảng Nam. Dọc theo lũy có đào hào trồng tre, trước lũy là vùng Man, sau lũy có xây đồn...
Sách Viêm Giao trưng cổ ký (Ghi chép sưu tập di tích cổ nước Nam) của Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục, hoàn thành năm 1900, cũng chép tương tự:
:''Năm thứ 18 (1819), Chưởng Tả quân Lê Văn Duyệt đắp Trường lũy, trồng hàng rào, đào hào chắn... Trải lâu năm lũy bị đổ nát, nhiều toán quân Man vượt quan lũy đến cướp bóc các làng dưới xuôi. Năm Tự Đức thứ 8 (1855), trùng tu Trường lũy.
Căn cứ theo đó thì Trường Lũy có từ xưa nhưng được xây dựng thêm vào triều Gia Long - Minh Mạng. Hai vị có công nhiều nhất trong việc kiến thiết và trùng tu là Lê Văn Duyệt và Nguyễn Tấn; cả hai đều xuất thân ở Quảng Ngãi. Việc xây cất kéo dài đến nửa cuối thế kỷ 19 như ghi lại trong Đại Nam thực lục:
:''Tháng 4 năm Bính Thìn (1856), "dân hơn 60 xã, thôn, trại, ấp ở ba huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa (nay là Tư Nghĩa), Mộ Đức ủy người về kinh (Huế) kêu xin, vì tình hình khổ quá, (mà) phải đi đắp đê dài... công việc quá nặng, khó gánh chịu nổi". Tháng 3 năm sau (1857), bố chính Quảng Ngãi là Phạm Tỉnh lại tâu xin đắp "Trường lũy" một cách quy mô, tập trung ngót 2500 binh lính và huy động dân đinh ba huyện 3700 người. Tự Đức đồng ý, lại còn ra lệnh khẩn trương sửa đắp xong trong ba tháng.
Khảo cổ
Cuộc khai quật di tích đã tìm thấy các mảnh gốm địa phương, gốm Bát Tràng, và cả gốm ngoại quốc với niên đại từ thế kỷ 17, chứng minh lũy không chỉ có từ triều Gia Long. Tuy nhiên việc củng cổ và xây đắp lại cho thêm cẩn mật diễn ra từ triều Gia Long về sau.
Kích thước, địa thế, cấu tạo
Trường Lũy Quảng Ngãi, các tài liệu ghi không thống nhất. Theo Đại Nam thực lục thì lũy có chiều dài là 117 dặm, còn sách Viêm Giao trưng cổ ký thì ghi là 177 dặm Sở dĩ có sự khác biệt này, có lẽ là do chiều dài của Trường Lũy tùy ở thời điểm khi được ghi chép. Song, trong các công bố gần đây, độ dài của công trình vẫn còn nhiều khác biệt:
:-Sau nhiều năm nghiên cứu (2005-2010), tại Hội nghị thông báo khảo cổ học năm 2010 tại Hà Nội, đoàn khảo sát thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp, Viện Khảo cổ học (Hà Nội), đã cho biết độ dài của lũy từ Ba Tơ vào đến Bình Định là 300 km, riêng đoạn thành chạy trên đất Bình Định là 30 km.
:-Theo bài viết "Sức hút kỳ lạ từ Trường Lũy" trên báo Pháp luật (bản điện tử) thì Trường Lũy chỉ dài 133 km.
:-Theo TS. Nguyễn Tiến Đông (Viện Khảo cổ học Việt Nam), thì Trường lũy có chiều dài xấp xỉ 200 km.
Về mặt địa thế, lũy nằm theo con đường thượng đạo Bắc Nam, nơi từng là lộ trình cho các cuộc hành quân lịch sử thời xưa. Như vào năm 1786, khi quân Tây Sơn kéo từ Thị Nại ra đánh lấy Phú Xuân, họ đã dùng con đường thượng đạo này để di chuyển mà không bị cản trở như ở hạ nguồn vì nơi đó có những cửa sông lớn chắn lối .
Về cấu tạo, Trường Lũy đắp bằng đất và đá (to bằng đầu người), cao 2m, dày 1,5m, phía ngoài có hào sâu rộng trên 3m và một hàng rào tre gai. Khảo sát bờ Trường Lũy chạy qua La Vuông (Bình Định) còn khá nguyên vẹn, thì thấy lũy có dáng hình thang, chân rộng 4-5m, mặt thành 2-3m có thể đi lại tuần tra thuận tiện. Tuy đây là một ranh giới nhưng không phải là một ranh giới đóng kín. Lũy cắt ngang qua nhiều sông, suối. Mỗi chỗ cắt ngang lại có một cổng, do một đồn bảo canh gác điều hành việc đi lại giữa cộng đồng người Việt và người H’rê.
Song cái đáng chú ý của Trường Lũy không chỉ ở độ dài, mà còn vì công trình được đắp hoàn toàn trên một địa hình rất khó khăn và phức tạp, gần như theo địa hình, hướng thành không theo một hướng nào nhất định, khi thì trên đỉnh núi, khi thì sườn đồi, dọc theo suối. Phải là người uyên bác mới tính toán được vậy, và phải tốn biết bao công sức của bao thế hệ người Việt mới được vậy.
Vai trò của Trường Lũy đối với nhà Nguyễn
Trường lũy xưa, triều Nguyễn xây dựng mang tính chất phòng vệ, song hiệu quả không cao, vì "quân Đá Vách dùng lối đánh du kích ẩn hiện khó lường, mà quân triều từ nơi khác đến đóng giữ lâu ngày không quen thủy thổ", và vì họ đều có "tài nghệ chiến đấu". Tướng Nguyễn Tấn trong Vũ Man tạp lục thư kể:
:Người Man ở tỉnh tôi, tính tình hung hãn, đi đứng chạy nhảy lanh lẹ, đến như luồng điện sáng, đi tựa ánh chớp. Dựa vào nơi hiểm yếu, bắn tên phóng lao, đó là môn sở trường của họ vậy... Trước đây quan binh đã từng bị chúng đánh thua, và chẳng phải là một lần mà thôi.
Rút lại, theo GS. Nguyễn Phan Quang trong Việt Nam thế kỷ XIX, thì:
:_Trải qua các triều vua từ Gia Long đến Tự Đức, "lũy bình Man" liên tiếp được củng cố, đồn bảo trên lũy liên tiếp được sửa đắp, tăng cường, nhưng triều Nguyễn vẫn không sao đè bẹp được cuộc đấu tranh của các dân tộc Đá Vách. Ngay tác giả _Vũ Man tạp lục thư'' cũng đã thú nhật sự bất lực của Trường lũy: "... Kế sách phòng bị quá chu đáo, chặt chẽ, không gì lọt qua được, tuy nhiên không có gì tốt hơn là giữ được (lòng) người vậy."
Thế giới lưu ý
Ngày 27 tháng 3 năm 2011, đoàn đại sứ các nước Châu Âu gồm: Pháp, Ba Lan, Hungary, Anh, Hy Lạp, România và Trưởng phái đoàn Liên Âu tại Việt Nam Sean Doyle đã cùng các nhà khoa học nước ngoài và nhà chức trách tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức hội thảo "Lịch sử quan hệ kinh tế và dân tộc" về di tích quốc gia Trường Lũy Quảng Ngãi.
Tại hội thảo, tham luận của các nhà khoa học đều thống nhất rằng:
:-Trường Lũy không những chỉ có nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quản lý nội địa; mà còn tạo điều kiện cho giao thương, mua bán giữa đồng bào miền ngược và miền xuôi, giữa miền núi và miền biển.
:-Công trình không chỉ có ý nghĩa lớn về giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội, là đường ranh giới đảm bảo về sự ổn định và hòa bình, là nơi giao thương mà còn có giá trị lớn về mặt quân sự, là cơ sở để quản lý, tạo mối quan hệ hòa hợp, gắn kết giữa cộng đồng các dân tộc.
Hiện nay, tỉnh Quảng Ngãi đã thống nhất giữ nguyên hiện trạng Trường Lũy trên cơ sở lấy Trường Lũy làm tâm, dọc theo hai bên lũy 500m là khu vực di tích.
Theo kỳ vọng của ngành chức năng, với di tích Trường Lũy, không chỉ là việc nghiên cứu mà còn tạo ra cơ hội về du lịch. Những cư dân sống dọc Trường Lũy sẽ có cơ hội về công ăn việc làm.
Ngày 10 tháng 3 năm 2011, Trường Lũy Quảng Ngãi đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp Quốc gia.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Một đoạn Trường lũy Quảng Ngãi **Trường Lũy Quảng Ngãi**, **Trường Lũy Quảng Ngãi-Bình Định** hay **Tĩnh Man trường lũy** (gọi theo sử Nhà Nguyễn), gọi tắt là **Trường Lũy**, là một công trình kiến
**Du lịch Quảng Ngãi** gồm có các khu du lịch Mỹ Khê, Sa Huỳnh, khu du lịch văn hoá Thiên Ấn, khu du lịch sinh thái núi Cà Đam, khu du lịch Thác Trắng, khu
nhỏ|Bản vẽ thành Quảng Ngãi **Thành cổ Quảng Ngãi**, còn gọi là **Cẩm thành** hay **thành Gấm**, là một thành lũy được xây dựng vào năm 1807 thời nhà Nguyễn ở Quảng Ngãi, Việt Nam.
**Quảng Ngãi** là một tỉnh ven biển nằm ở phía bắc vùng Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Cẩm Thành, cách Thành phố Hồ Chí Minh
**Mỹ Khê** là một bãi biển ở Thành phố Quảng Ngãi, Tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. ## Vị trí Bãi biển này thuộc thôn Cổ Lũy, xã Tịnh Khê, Thành phố Quảng Ngãi. Nó cách
**Quảng Ngãi** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Quảng Ngãi, thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Quảng Ngãi nằm ở trung bộ Việt Nam; cách
**Trương Đăng Đồ** (? - 1802) một danh tướng của Tây Sơn, tước Tú Đức hầu. ## Thân thế Trương Đăng Đồ là người làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi; nay thuộc
**Trương Định** (chữ Hán: 張定; 1820 – 1864) hay **Trương Công Định** hoặc **Trương Trường Định**, là võ quan triều Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864, trong lịch sử
**Cầu Cổ Lũy** là một cây cầu bắc qua sông Trà Khúc tại thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Đây là cây cầu dây văng đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi. ##
**Trương Đăng Quế** (chữ Hán: _張登桂_, 1793-1865), tự: **Diên Phương**, hiệu: **Đoan Trai**, biệt hiệu: **Quảng Khê**; là danh thần trải 4 triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử
**Trần Quang Diệu** (chữ Hán: 陳光耀; 1746 – 1802) là một trong _Tây Sơn thất hổ tướng_ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với vợ là nữ tướng Bùi Thị
**Quảng Bình** là một tỉnh ven biển cũ nằm ở phía nam vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Đồng Hới. Nơi đây cũng là nơi
**Nguyễn Văn Trương** (; 1740 - 1810), là một trong Ngũ hổ tướng Gia Định, và là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Phong trào nổi dậy ở Đá Vách** là một loạt các cuộc nổi dậy của người dân tộc thiểu số ở khu vực Quảng Ngãi, Việt Nam kéo dài suốt hơn một nửa thế kỷ
**Lê Văn Duyệt** (1763 hoặc 1764 – 28 tháng 8 năm 1832) còn gọi là **Tả Quân Duyệt**, là một nhà chính trị, nhà quân sự lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Núi Thạch Bích** (chữ Hán: 石 璧), tên Nôm gọi là **Đá Vách**, là một danh sơn của tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Núi cao khoảng 1.500 mét , nằm ở phía Đông Nam huyện
**Thảm sát Mỹ Lai** hay **thảm sát Sơn Mỹ** là một tội ác chiến tranh của Lục quân Hoa Kỳ gây ra trong thời gian Chiến tranh Việt Nam. Trong tiếng Anh, vụ thảm sát
**Phạm Thị Trinh** (8 tháng 3 năm 1914 - 10 tháng 4 năm 2019), đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930. Bà thuộc thế hệ những đảng viên đầu tiên của Đảng. Phạm
**Nguyễn Ngọc Hưng** (1960 -), là tác giả của nhiều tập thơ đã được xuất bản tại Việt Nam. Anh được đánh giá là "một hồn thơ lạc quan bởi anh đã dũng cảm vượt
**Người H'rê**, còn có tên gọi khác là **Chăm Rê**, **Chom Krẹ**, **Lùy**, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. ## Tên gọi Tên gọi của người Hrê trước đây
**Sông Trà Khúc** là con sông lớn nhất ở tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam . ## Từ nguyên Tên "Trà Khúc" mang giọng Chiêm vì "Trà" có gốc từ _jaya_ trong tiếng Phạn, và là
**Phạm Trung Mưu** (1910–1997), bí danh **Huân**, là một nhà cách mạng Việt Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi. ## Thân thế Phạm Trung Mưu sinh ngày 1 tháng 2 năm 1910 ở
**Đường ven biển Việt Nam** là một tuyến giao thông đường bộ đang được thi công, dài khoảng 3.041 km và cũng là tuyến đường bộ thứ 3 chạy từ Bắc vào Nam Việt Nam sau
**Phan Khắc Thận** (潘克慎, 1798-1868), hiệu: _Châu Lưu_, là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế & sự nghiệp **Phan Khắc Thận** sinh năm Mậu Ngọ (1798) tại làng Tư Cung,
**Dãy núi Trường Sơn**, hoặc gọi **dãy núi Trung Kì** (chữ Pháp: chaîne Annamitique, cordillère Annamitique), là dãy núi chủ yếu ở bán đảo Đông Dương, dài khoảng 1.100 kilômét, là đường phân thủy của
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Nguyễn Văn Được** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1946) là Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam, đại
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Lê Duẩn** (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia người Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm
**Trương Nhĩ** (chữ Hán: 張耳; ?-202 TCN) là tướng nước Triệu và vua chư hầu thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc, xuất thân từ Đại Lương (nước Nguỵ). ## Giàu sang nhờ vợ
Hòa thượng **Thích Quảng Độ** (27 tháng 11 năm 1928 – 22 tháng 2 năm 2020) là Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ ngày 17 tháng 8 năm 2008
**Po Binasuor** hay còn được biết đến rộng rãi hơn với tên gọi **Chế Bồng Nga** (Hán-Việt: 制蓬峩, ? - 23 tháng 1 năm 1390 ÂL), theo cách gọi của người Ê Đê và Giarai
**Phố cổ Hội An** là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển thành phố Đà Nẵng, Việt Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 30 km
**Trần Đại Nghĩa** (13 tháng 9 năm 1913 – 9 tháng 8 năm 1997) là một Giáo sư, Viện sĩ, kỹ sư quân sự, nhà bác học, Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam,
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Lâm Đồng** là một tỉnh nằm ở phía nam của khu vực Tây Nguyên, Việt Nam. Phía bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía nam giáp tỉnh Bình Thuận và Đồng Nai, phía đông giáp tỉnh
**Chiến tranh Việt – Xiêm (1841–1845)** là cuộc chiến giữa hai nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển
**Nhà Hồ** (chữ Nôm: 茹胡, chữ Hán: 胡朝, Hán Việt: _Hồ triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi
nhỏ|234x234px|[[Ga Hà Nội, điểm đầu của đường sắt Bắc Nam]] Dưới đây là danh sách các nhà ga thuộc tuyến đường sắt Thống Nhất (Bắc – Nam): ## Từ Hà Nội đến Ninh Bình !
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1400–1407)** là cuộc chiến giữa nhà Hồ nước Đại Ngu và nước Chiêm Thành phía nam. Ban đầu nhà Hồ chiếm được đất đai mà tương đương với nam Quảng
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên