✨Nghệ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Nghệ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Nghệ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng phản ánh các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời Lê trung hưng trong vùng lãnh thổ do chúa Trịnh cai quản (phía bắc sông Gianh), chủ yếu trên lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc và hội họa.

Âm nhạc

nhỏ|phải|Một nhà hát ở [[Đông Kinh thế kỷ 17, từ trong cuốn Recueil de Plusieurs Relations et Traites của Jean-Baptiste Tavernier (1605-1689)]] Trong các loại hình âm nhạc dân gian, hát chèo truyền thống đã trở thành hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc sắc, góp phần làm phong phú thêm đời sống sinh hoạt của người dân. Nhiều địa phương đã hình thành những đội hát chèo, hay có những làng hát chèo nổi tiếng được lưu truyền lâu dài như ở Thái Bình.

Tại Đàng Ngoài, ngoài nghệ thuật hát chèo còn có các loại hình hát quan họ, hát ả đào, hát trống quân, hát xoan, hát giặm và hát si, hát lượn (dân tộc Tày), hát khắp (người Thái) ở các địa phương.

Kiến trúc

Những công trình kiến trúc lăng mộ vua chúa cơ bản mô phỏng của đời trước và không có những nét mới so với thời Lê sơ.

Kiến trúc dân gian mang tính cởi mở, phóng khoáng hơn nhờ tính sáng tạo của những người thợ.

Cung điện

nhỏ|trái|Quang cảnh Phủ chúa Trịnh do Samuel Baron vẽ năm 1685.

Đình làng

nhỏ|phải|Đình Bảng

Từ thế kỷ 17, nhiều ngôi đình làng, xã đã được xây dựng; sang thế kỷ 18 thì gần như làng xã nào cũng có đình. Thời Chính Hòa (1680-1705) được xem là đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc đình làng. Những ngôi đình làng có kiến trúc độc đáo như đình làng Chu Quyến (Hà Nội), đình làng Thổ Tang, Ngọc Canh (Vĩnh Phúc). Tại đình Chu Quyến có những tượng tròn và hoạt cảnh như tượng chim, phượng, người cưõi báo gắn trên giá đỡ ở cột. Tại đình Thổ Tang và Ngọc Canh, phù điêu được kết thành chuỗi dài với các hoạt cảnh gồm hai ba tầng như người đi cày, đi săn, đá cầu, đấu võ, hội làng…

Sang thế kỷ 18, có nhiều ngôi đình làng có kiến trúc khá đẹp như đình Thạch Lỗi (Văn Giang, Hưng Yên), Nhân Lý (Nam Sách, Hải Dương), đình Đình Bảng (Bắc Ninh), được xem là thời gian xây dựng lâu nhất đối với một ngôi đình.

Chùa

nhỏ|phải|Gác chuông chùa Keo ở Thái Bình

Ngoài đình, còn có nhiều chùa do các quan lại, quý tộc đứng ra trùng tu, sửa chữa những ngôi chùa được xây cất từ đời trước. Kiến trúc chùa thời kỳ này hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên, gần gũi với cuộc sống đời thường chứ không cao lớn uy nghiêm như tại những nước theo đạo Phật khác.

Chùa Keo (hay chùa Thần Quang) tại Thái Bình được xây mới năm 1632 và trùng tu nhiều lần trong thế kỷ 17-18 kiến trúc theo kiểu "thượng thu hạ thách" với hệ thống cột biên được xem là một kiệt tác. Chùa Bút Tháp (hay chùa Ninh Phúc) ở Bắc Ninh được xây dựng lại năm 1646-1647, trong chùa có tháp Báo Nghiêm (tháp Bút) cao tới hơn 13 mét gồm 5 tầng.

Chùa Tây Phương (hay chùa Sùng Phúc) ở Thạch Thất (Hà Nội) cũng được xây dựng lại hoàn toàn và trung tu, nằm trên núi Câu Lậu cao 50 mét. Từ chân núi tới chùa gồm 329 bậc đá ong. Chùa có 3 tầng chính, cấu trúc cách nhau 1,6 mét xây theo kiểu chồng diêm, 2 tầng 8 mái với khung gỗ chịu lực, tường ngoài xây bằng gạch Bát Tràng. Những chi tiết kiến trúc trang trí kiểu mái cong còn gọi là "đóa hoa đao đình", các mái, vì, xà được chạm khắc chim muông, hoa lá rất công phu với các cửa tròn theo triết lý sắc sắc không không của đạo Phật.

Chùa Hương Tích (Hà Nội) gồm một quần thể chùa được đánh giá là đẹp nhất Đại Việt (Nam thiên đệ nhất động) đặt trong quang cảnh tĩnh mịch và hùng vĩ của những ngọn núi cao bên bờ suối Yến.

Điêu khắc

phải|Một trong 18 vị La Hán chùa Tây Phương

Nghệ thuật điêu khắc thời kỳ này đạt đến trình độ khá điêu luyện, nhất là điêu khắc trên gỗ. Hai loại điêu khắc tiêu biểu là tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay và tượng Tuyết Sơn.

Pho tượng nổi tiếng nhất là tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay ở chùa Ninh Phúc (Bút Tháp) do nhà điêu khắc họ Trương, tước Giao Thọ nam ở Nam Đồng theo lệnh của triều đình, hoàn thành năm 1656, thể hiện sự tinh xảo và phóng khoáng trong tư duy và tình cảm. Tượng cao 3,7 mét, rộng 2,1 mét, mặt trái xoan, thân hình thon thả, cánh tay tròn, đeo vòng, có 42 cánh tay lớn và 789 cánh tay nhỏ, trong mỗi bàn tay có một con mắt nhỏ.

Tượng Tuyết Sơn xuất hiện sớm ở chùa Bút Tháp từ giữa thế kỷ 17, sang thế kỷ 18 tiếp tục phát triển lên đỉnh cao tại chùa Tây Phương. Đây là pho tượng điển hình thể hiện con người khắc khổ, gầy gò, ở tư thế ngồi chân gấp ngang, một chân chống, cao 1,24 mét, toàn thân sơn màu nâu đen, gợi đến cái chết hình thức để tôn cao cái sống bản thể.

Ngoài ra, tượng 18 vị La Hán chùa Tây Phương (Hà Nội) cũng là những tác phẩm đáng kể thời kỳ này.

Những công trình chạm khắc đá nổi tiếng là bia Nam Giao (1680) và bia Hàm Long (1714) với những đường chạm trổ công phu hình con vật linh thiêng như rồng, phượng, hổ phù, kỳ lân…

Thời Lê trung hưng cũng đánh dấu những thành tựu của nghề đúc đồng với những tác phẩm: tượng Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Trấn Vũ (Hà Nội) được xem là pho tượng hiếm thấy ở Việt Nam với chiều cao 3,36 mét, chu vi đáy 8 mét, nặng 4 tấn, đúc năm 1677.

Hội họa

Thời kỳ này có nhiều tranh vẽ trên lụa, giấy bồi và trên ván. Tranh dân gian khá phát triển, nhất là tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống và tranh Kim Hoàng mang nhiều sắc thái dân tộc.

Tranh lụa

phải|Tranh chân dung Trịnh Đình Kiên (1715 - 1786), vẽ trên lụa, hiện trưng bày tại [[Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.]]

Vẽ tranh trên lụa là một kỹ thuật đã hiện diện từ nhiều thế kỷ trong nền hội họa Việt Nam. Có hai kỹ thuật vẽ tranh lụa:

  • Kỹ thuật cổ truyền thống được vẽ trực tiếp trên lụa khô.
  • Kỹ thuật hiện đại bắt đầu từ thập niên 1930, áp dụng nhuộm đi nhuộm lại màu lên mặt lụa.

Lụa vẽ thời Lê trung hưng thường là lụa tằm. Trước khi vẽ, lụa phải được căng trên khung và phết một lớp hồ loãng. Người vẽ rửa qua lớp hồ này để bột màu có thể ngấm vào thớ lụa. Màu dùng để vẽ lụa là phẩm hay mực nho.

Việt Nam hiện nay có một số tranh lụa cổ rất quý thời Lê trung hưng như chân dung Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan, Trịnh Đình Kiên, Phan Huy Cẩn, Phan Huy Ích...

Tranh dân gian

nhỏ|phải|Đám cưới chuột - một bức tranh Đông Hồ Tranh Đông Hồ là mặt hàng bình dân nhưng chỉ tồn tại ở làng nghề duy nhất là làng Đông Hồ (nay là làng Đông Khê, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh). Các nhà nghiên cứu cho rằng các nghệ nhân Đông Hồ bắt đầu làm tranh từ thế kỷ 17. Sản phẩm được làm ra từ quy trình kỹ xảo tinh tế và phối hợp chặt chẽ giữa các khâu: vẽ mẫu, khắc mẫu và in tranh. Nguyên liệu gồm có giấy dó và các màu trong tự nhiên. Dựa vào nội dung chủ đề, có thể chia tranh Đông Hồ thành bảy loại chính, gồm tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt, tiêu biểu là các tranh: đàn gà, lợn độc, đánh vật, đánh ghen, hứng dừa, vinh hoa, phú quý, rước trống, chăn trâu thổi sáo, gà đại cát….

Tranh thờ Bạch Hổ thuộc dòng tranh Hàng Trống

Tranh Hàng Trống bắt đầu hình thành và phát triển tại các khu vực tương đương phố Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng Bồ (Hà Nội) hiện nay từ thế kỷ 17. Tranh Hàng Trống khác tranh Đông Hồ là in nét đen trước rồi tô màu phẩm lên sau. Do sử dụng được các màu phẩm nên phối màu của tranh Hàng Trống rất phong phú. Các bức tranh nổi tiếng là: lý ngư vọng nguyệt, ngũ hổ, tố nữ, tam tòa thánh mẫu, Phật, tứ phủ, Ngọc Hoàng,... Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh xem tranh Hàng Trống là sự giao thoa giữa văn hoá Phật giáo và Nho giáo. Dù phát triển ở kẻ chợ và mang tính chất thị thành, tranh Hàng Trống còn bao gồm cả tranh thờ của các dân tộc miền núi phía Bắc - dòng tranh vốn có nhiều bức do những nghệ nhân Hàng Trống chế tác theo "đặt hàng" phục vụ các nghi lễ thờ cúng khá đa dạng của đồng bào dân tộc thiểu số.

Tranh Hàng Trống và tranh Đông Hồ thường phục vụ nhu cầu mua về treo trong dịp tết nên những dòng tranh này còn được gọi là tranh Tết. Nghệ nhân tranh Hàng Trống còn làm tranh treo tại chùa và đền thờ Đạo giáo.

Tranh Kim Hoàng (còn gọi là tranh đỏ vì tranh chỉ in trên giấy hồng điều hay vàng tàu) là tranh của làng Kim Hoàng (nay tại xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Nội), được hình thành từ cuối thế kỷ 17. Dòng tranh này khác với các dòng tranh khác ở chỗ có kết hợp giữa in, tô màu và vẽ, trong khi kỹ thuật làm tranh Đông Hồ là thuần in, tranh Hàng Trống là in và tô màu bằng phẩm. Vì vậy tranh Kim Hoàng có tính uyển chuyển về nét và phong phú về tạo chất của mảng. Nét vẽ của loại tranh này là nét vẽ hàng loạt theo kiểu hàng chợ, vì thế người nghệ nhân phải chọn lối vẽ nhanh, bút pháp linh hoạt kiểu quen tay như vẽ trên đồ gốm, sứ.

Tranh lợn độc, một trong số ít những bức tranh Kim Hoàng còn lại đến nay

Màu ở tranh Đông Hồ là màu nguyên không pha trộn, chỉ chồng lên nhau hoặc đặt cạnh nhau, có viền thêm các nét đen đậm, ít màu trung gian. Tranh Hàng Trống nét mảnh hơn, tinh hơn, uyển chuyển hơn, màu không in mà tô vào, tạo nên vẻ đẹp đậm nhạt theo ý muốn. Gam màu chủ yếu là màu lam - hồng, có thêm màu lục - đỏ - da cam - vàng.

Tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng góp phần tạo nên diện mạo tranh dân gian vùng đồng bằng Bắc bộ. Trong ba dòng tranh, tranh Hàng Trống mang tính thị thành rõ rệt, còn tranh Đông Hồ và Kim Hoàng là tranh của làng quê. Tuy vậy giữa 2 dòng tranh làng quê rất khác nhau, tranh Đông Hồ là nét khắc chắc, khoẻ, bản in nhiều màu trên nền điệp, được in theo lối sấp bản (in như kiểu đóng dấu). Tranh Kim Hoàng chỉ in nét đen như tranh Hàng Trống, nhưng nét chắc khoẻ giống tranh Đông Hồ hơn, tranh được in theo lối ngửa bản in cộng với vẽ và tô màu.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nghệ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời Lê trung hưng trong vùng lãnh thổ do chúa Trịnh cai quản (phía bắc
**Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, nông nghiệp Đại Việt thời Lê trung hưng bao gồm 2 nội dung _nông nghiệp Đàng Ngoài_ và nông nghiệp Đàng Trong. Nông
**Thương mại Đàng Trong thời Lê trung hưng** bao gồm các hoạt động thương mại trong và ngoài nước của miền nam Đại Việt thời Lê trung hưng dưới quyền cai quản của các chúa
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
**Văn học Đàng Trong thời Lê trung hưng** là một giai đoạn của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
Dù Đàng Trong tách thành chính quyền độc lập, **thủ công nghiệp Đàng Trong** về cơ bản cũng có những nét tương đồng so với Đàng Ngoài. Do sự tác động từ sự du nhập
Chân đèn trang trí họa tiết rồng thời Mạc **Nghệ thuật Đại Việt thời Mạc** phản ánh các thành tựu về nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời nhà Mạc từ năm 1527 đến
nhỏ|Đàng Ngoài và [[Đàng Trong (1757)]] nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ Đàng Ngoài (Tonkin), cùng [[Đàng Trong (Cochinchina) và Lào, năm 1771.]] phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam, Ai Lao (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam
**Hình tượng con ngựa trong nghệ thuật** là hình ảnh của con ngựa trong nghệ thuật, ngựa là chủ đề khá quen thuộc trong văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, chúng
nhỏ|296x296px| Tranh khảm Byzantine là một trong những tác phẩm lừng danh còn sót lại của [[Hagia Sophia ở Constantinople - chân dung của Christ Pantocrator trên các bức tường của phòng trưng bày phương
Một số đặc trưng của nghệ thuật Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ như đàn bầu, tam thập lục, đàn tứ,
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
nhỏ|phải|Thai tạng giới [[Mạn-đà-la ()]] nhỏ|phải|Vòng Pháp luân **Nghệ thuật Phật giáo** là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh
thumb|[[Vincent van Gogh, tháng 7 năm 1890, _Đồng lúa và những con quạ_.]] **Tâm lý học mỹ thuật** là một lĩnh vực liên ngành nghiên cứu về quan niệm, nhận thức và đặc điểm của
nhỏ|304x304px|Bức tranh trừu tượng màu nước đầu tiên của [[Wassily Kandinsky|Kandinsky, 1910 ]] **Nghệ thuật Trừu tượng** là trào lưu hội họa đầu thế kỷ 20, vào những năm 1910 đến 1914. Nghệ thuật trừu
nhỏ|phải|[[Leonardo da Vinci, _Người đàn bà và con chồn_- Bảo tàng Czartoryski, Kraków, Ba Lan]] Filippo Brunelleschi, Lorenzo Ghiberti và Donatello là những người mở đường cho hướng đi mới trong nghệ thuật có tiền
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
thế=Michelangelo's David|nhỏ| _[[David (Michelangelo)|David_   (1504) "Tinh thần nào trống rỗng và mù quáng đến nỗi nó không thể nhận ra sự thật rằng bàn chân còn cao quý hơn giày, và da đẹp hơn
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
alt=|thumb|Bàn tay phước lành của Stepan Ryabchenko tại Saatchi Gallery ở [[London, mô tả bàn tay của Chúa]] **Nghệ thuật ánh sáng** là một loại hình nghệ thuật thị giác sử dụng ánh sáng làm
thumb|Từ góc phía trên bên trái theo chiều kim đồng hồ: một bức chân dung tự họa của [[Vincent van Gogh, một bức tượng của người Chokwe ở châu Phi, một phần bức tranh _Birth
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
Toán học trong nghệ thuật: Bản khắc trên tấm đồng mang tên _[[Melencolia I_ (1514) của Albrecht Dürer. Những yếu tố liên quan đến toán học bao gồm com-pa đại diện cho hình học, hình
**Văn hóa Lê–Mạc** (hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lê–Mạc** hay cụ thể hơn nữa là **Thời kỳ chuyển giao Lê–Mạc**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
Các nhà hoạt động xã hội và nghệ sĩ tham gia các cuộc biểu tình ở Hồng Kông năm 2019 – 2020 đã sử dụng tác phẩm nghệ thuật, hội họa, âm nhạc và các
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
**Nghệ thuật Thiền tông** Phật giáo là một loại hình nghệ thuật có nguồn gốc từ Thiền tông. Các thiền sư đã mượn các nghệ thuật này để miêu tả những kinh nghiệm hay chứng
**Lê Thần Tông** (chữ Hán: 黎神宗) (1607 – 2 tháng 11 năm 1662) tên húy là **Lê Duy Kỳ** (黎維祺), là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lê Trung hưng và thứ 17 của
thế=|nhỏ|350x350px|Thông báo được dán trước cửa một [[thư viện công cộng ở Island Bay, New Zealand rằng nó bị đóng cửa do đại dịch và sẽ miễn tất cả phí trả lại trễ]] Đại dịch
**Thủ công nghiệp Đại Việt thời Lê Sơ** chiếm vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế Đại Việt thời Lê Sơ. Có hai loại hình là thủ công nghiệp trong nhân dân và
**Lê Công Hành** (chữ Hán: 黎公衡; 24 tháng 2 năm 1606-7 tháng 7 năm 1661) là một quan lại thời Hậu Lê (Lê Trung Hưng). Ông được tôn xưng là ông tổ nghề thêu cổ
phải|nhỏ|Bức _[[Người Vitruvius_ của Leonardo da Vinci thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại lên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn _De
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
thế=Một Võ sư Võ cổ truyền Việt Nam.|nhỏ|Một [[Võ sư Võ cổ truyền Việt Nam.|225x225px]] **Võ thuật** là hệ thống được mã hóa và truyền thống chiến đấu được thực hành vì một số lý
**Âm nhạc thời Phục Hưng** là âm nhạc được viết tại Châu Âu trong thời kỳ Phục Hưng. Các nhà nhạc sử học – với những bất đồng đáng kể – đều thống nhất cho
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Phạm Đình Kính** (chữ Hán: 范廷鏡; 1669-1737), tên khai sinh là **Phạm Kim Kính**, là một vị quan thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Phạm Đình Kính là người tài cao, đức
Thiếu tướng **Lê Thiết Hùng** (1908 – 1986) nhà hoạt động cách mạng, được xem là vị tướng được phong quân hàm đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. ## Thiếu thời Ông
**Đoan Nam Vương** **Trịnh Tông** (chữ Hán: 鄭棕; 10 tháng 10 năm 1763 - 23 tháng 7 năm 1786), còn có tên khác là **Trịnh Khải** (鄭楷) là vị chúa Trịnh thứ 10 thời Lê
**Phùng Khắc Khoan** (chữ Hán: 馮克寬;1528-1613), tự là **Hoằng Phu**, hiệu là **Nghị Trai**, **Mai Nham Tử**, tục gọi là **Trạng Bùng** (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan
**Nguyễn Trù** (chữ Hán:阮儔, 1668-1738), tự **Trung Lượng**, hiệu **Loại Phủ**, **Loại Am**, người phường Đông Tác (Trung Tự), huyện Thọ Xương thuộc kinh thành Thăng Long, là một đại thần dưới triều Lê Trung
**Ngô Trí Hòa** (1564-1625) là danh thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Tên tuổi của ông không chỉ được ghi trong sử sách mà còn được biết đến qua các văn
**Hưng Yên** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam.
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
nhỏ|phải|Tháp Phước Duyên ở [[chùa Thiên Mụ đã trở thành một trong những công trình biểu tượng của thành phố Huế]] **Tháp chùa Việt Nam** là những công trình tháp được đặt tại các ngôi
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới