Lê Trung Ngọc (chữ Hán: 黎忠玉; 1867-1928) là một quan viên Nhà Nguyễn đầu thế kỷ XX. Ông là một trong những người sáng lập Hội Khai trí tiến đức và Hội Nam kỳ tương tế ở Hà Nội và được xem là người đề xướng ngày quốc tế (國祭, tức ngày tế lễ quốc gia) 10 tháng Ba âm lịch hàng năm là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Cuộc đời và sự nghiệp quan trường
Ông sinh ngày 23 tháng 9 năm Đinh Mão (tức 20 tháng 10 năm 1867), quê ở thôn Tân Quảng, huyện Tân Long, hạt thanh tra Chợ Lớn, tỉnh Sài Gòn (nay thuộc Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh).
Sinh ra trong một gia đình Nho học, tuy nhiên bấy giờ đất Nam Kỳ đã là thuộc địa của Pháp, nên ông theo Tây học. Năm 1883, Hòa ước Harmand được ký kết, sau khi học xong trường Hậu bổ Cây Mai Sài Gòn (Collège dés Stagiaires), ông được chính quyền thực dân điều ra làm việc trong chính quyền Nam triều tại Bắc Kỳ.
Sự nghiệp quan trường của ông kéo dài trong 40 năm. Tháng 1 năm 1903, ông được bổ làm Tuần phủ Bắc Ninh, đến tháng 7 năm 1903 được đổi làm Thương tá Vĩnh Yên.
Tháng 3 năm 1908, ông được đổi làm Án sát Vĩnh Yên; sau đổi làm Án sát Phúc Yên, tháng 6 năm 1909, đổi làm Án sát Sơn Tây.
Tháng 2 năm 1912, ông được bổ làm Tuần phủ Sơn Tây. Tháng 4 năm 1913, đổi làm Tuần phủ Bắc Giang. Tháng 12 năm 1913, làm Tuần phủ Quảng Yên. Từ tháng 2 năm 1915 đến tháng 1 năm 1921, ông làm Tuần phủ Phú Thọ.
Tháng 2 năm 1921, ông được bổ làm Tổng đốc Hải Dương. Đến tháng 1 năm 1924, ông làm Tổng đốc Tòa Thượng thẩm, Hà Nội cho đến khi nghỉ hưu vào tháng 7 năm 1927.
Ông qua đời ngày 21 tháng Tư năm Mậu Thìn (tức 8 tháng 6 năm 1928) tại Hà Nội, hưởng thọ 62 tuổi.
Trong sự nghiệp quan trường, ông đã dược tặng thưởng nhiều Huân chương như: Kỷ niệm chương Bắc kỳ năm 1888; Đại Nam Long tinh Đệ ngũ hạng năm 1890; Huy chương bạc hạng nhất năm 1891; Huy chương vàng 1892; Hồng Lô tự thiếu khanh năm 1896; Kim Thánh năm 1898; Huân chương Viện hàn lâm năm 1904; Huân chương quốc gia Vương quốc Campuchia năm 1913…
Người có công định lệ mùng 10 tháng Ba
Chính sử Việt Nam có ghi chép thời Hùng Vương quốc đô đặt tại Phong Châu (nay là Bạch Hạc), truyền 18 đời. Đời sau lập miếu thờ các vua Hùng ở núi Nghĩa Lĩnh (tức núi Hùng). Theo Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức, từ thời Nhà Đinh, Nhà Tiền Lê, Nhà Lý, Nhà Trần rồi đến Hậu Lê, trải các triều đại, lễ tế đền Hùng được liệt vào điển chế thờ tự, giao cho dân sở tại coi sóc. Dân chúng toàn quốc đều đến đây lễ bái.
Cho đến đầu thế kỷ XX, dân chúng đến tế lễ đền Hùng thường tự chọn ngày tốt theo bản mệnh từng người vào các tháng trong suốt cả năm, song tập trung vào mùa xuân và mùa thu chứ không định rõ ngày nào. Tục lệ dân bản xã thì việc cúng Tổ được cử hành vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch). Lễ cúng tổ thường kết hợp với thờ Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ làm lễ tế Tổ tại Hùng Vương Tổ miếu. Trong khi đó, quốc lễ cúng tế lại thường được tổ chức định kỳ vào vào mùa thu.
Khi đến trấn nhậm Phú Thọ, Tuần phủ Lê Trung Ngọc đã giành nhiều tâm huyết và công sức đôn đốc việc tu bổ, tôn tạo đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương. Nhận thấy việc lễ bái tại đền Hùng thường duy trì kéo dài triền miên, gây tốn kém tiền của, lãng phí thời gian lại vừa phân giảm lòng thành kính cũng như sự trang nghiêm tri ân công đức các vua Hùng, đầu năm 1917, ông trực tiếp làm bản tấu trình với Bộ Lễ xin định lệ hàng năm lấy ngày 10 tháng 3 Âm lịch để tổ chức quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, trước một ngày so với ngày hội tế Hùng Vương, Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ của dân xã bản hạt; đồng thời cũng xin miễn trừ các khoản đóng góp của nhân dân địa phương vào các kỳ tế lễ mùa thu. Ngày 25 tháng 7 năm 1917 (niên hiệu Khải Định nguyên niên), Bộ Lễ đã phúc đáp bản tấu này, chính thức định lệ ngày 10 tháng 3 âm lịch là ngày Quốc lễ Giỗ Tổ, và cũng quy định rõ nghi thức, nghi lễ, lễ vật tế Tổ hằng năm. Từ đây, lễ Giỗ Tổ mùng 10 tháng Ba trở thành ngày quốc lễ chính thức của Việt Nam và ngày Giỗ Tổ của cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.
Mùa xuân năm Quý Hợi, niên hiệu Khải Định năm thứ 8 (1923), tấm bia "Hùng miếu điển lệ bi" dựng tại đền Thượng, Đền Hùng, đã ghi lại sự kiện lịch sử quan trọng này. Nội dung văn bia cũng ghi nhận Tuần phủ Lê Trung Ngọc là người có công đề xuất ngày Quốc tế (國祭, tức ngày tế lễ quốc gia) này.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Trung Ngọc** (chữ Hán: 黎忠玉; 1867-1928) là một quan viên Nhà Nguyễn đầu thế kỷ XX. Ông là một trong những người sáng lập Hội Khai trí tiến đức và Hội Nam kỳ tương
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
Biến động biên giới Việt - Trung, 1428 - 1895. **Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê trung hưng** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê trung hưng ở
**Nghệ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời Lê trung hưng trong vùng lãnh thổ do chúa Trịnh cai quản (phía bắc
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
**Lê Trung Tông** (chữ Hán: 黎中宗 1535 - 24 tháng 1 năm 1556) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Lê trung hưng và là thứ 13 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, nông nghiệp Đại Việt thời Lê trung hưng bao gồm 2 nội dung _nông nghiệp Đàng Ngoài_ và nông nghiệp Đàng Trong. Nông
**Lê Trung Hải **(sinh năm 1957), là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú, Bác sĩ cao cấp, nguyên
**Lê** () là một họ của người Việt Nam và Trung Quốc. Họ Lê phổ biến ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Kông). Họ "Lê" của người Trung Quốc (chữ Hán: 黎; bính
**Lê Ngọc Hân** (chữ Hán: , 1770 – 1799), còn gọi **Công chúa** **Ngọc Hân** hay **Bắc cung Hoàng hậu**, là một nhân vật lịch sử nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam sống ở
**Lê Trang Tông** (chữ Hán: 黎莊宗 1515 - 9 tháng 3 năm 1548), hay còn gọi là **Trang Tông Dụ Hoàng đế** (莊宗裕皇帝), tên thật là **Lê Ninh** (黎寧), là vị Hoàng đế thứ 12
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Lê Duy Mật** (黎維樒, ? – 1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với
**Lê Thần Tông** (chữ Hán: 黎神宗) (1607 – 2 tháng 11 năm 1662) tên húy là **Lê Duy Kỳ** (黎維祺), là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lê Trung hưng và thứ 17 của
**Trịnh Thị Ngọc Trúc** (1595 - 1660, chữ Hán: 鄭氏玉竹) còn được biết đến là **Lê Thần Tông Trịnh hoàng hậu** (黎神宗鄭皇后), là một Hoàng hậu của nhà Lê trung hưng, vợ của Lê Thần
**Lê Anh Tông** (chữ Hán: 黎英宗 1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là **Lê Duy Bang** (黎維邦), là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Lê Ngọc Bình** (chữ Hán: 黎玉玶; 22 tháng 1 năm 1785 - 10 tháng 10 năm 1810), thụy hiệu **Đức phi** (德妃)'' Khi Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, không hiểu vì lý do gì, Ngọc
**Lê Chân Tông** (chữ Hán: 黎真宗 1630 – 2 tháng 10 năm 1649) tên húy là **Lê Duy Hựu** (黎維祐, 黎維禔), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Lê Trung hưng và thứ 18
**Lê Quang Ngọc**, tên thường dùng là **Lê Ngọc**, sinh năm 1925 tại Hà Nội; được mệnh danh là “vua máy chữ” và là Hiệu trưởng Trường dạy đánh máy chữ đầu tiên của người
hay **Vĩnh Khánh Đế** hoặc **Hôn Đức công**, là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Lê Trung hưng và thứ 23 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê
**Lê Gia Tông** (chữ Hán: 黎嘉宗 1661 – 27 tháng 4 năm 1675), tên húy là **Lê Duy Cối** (黎維禬, 黎維𥘺) là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Lê Trung hưng và thứ 20
**Lê Hy Tông** (chữ Hán: 黎熙宗 15 tháng 3 năm 1663 – 3 tháng 4 năm 1716) tên húy là **Lê Duy Cáp** (黎維祫) hay **Lê Duy Hiệp** là vị vua thứ 10 của nhà
**Lê Thái Ngọc** (sinh ngày 15 tháng 10 năm 1957) là một tướng lĩnh trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên là Phó Tư lệnh thường trực phía Nam Bộ đội
**Trịnh Thị Ngọc Trinh** (chữ Hán: 鄭氏玉楨), là một hoàng hậu nhà Lê trung hưng. Vợ vua Lê Kính Tông, mẹ vua Lê Thần Tông. Bà là hoàng hậu họ Trịnh đầu tiên thời Lê
**Lê Trung Trực** (1927-2002), nguyên là một tướng lĩnh gốc Không Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Không quân Pháp. Ông đã
**Lê Nguyễn Ngọc Hằng** (sinh ngày 8 tháng 12 năm 2003) thường được biết đến với nghệ danh **HERA** hay **Hera Ngọc Hằng**. Cô là một á hậu, ca sĩ, người mẫu, người dẫn chương
**Lê Thuần Tông** (chữ Hán: 黎純宗 16 tháng 3 năm 1699 – 5 tháng 6 năm 1735) là vị Hoàng đế thứ 13 của triều Lê Trung hưng nước Đại Việt, đồng thời là Hoàng
**Lê Huyền Tông** (chữ Hán: 黎玄宗 1654 – 16 tháng 11 năm 1671) tên thật là **Lê Duy Vũ** (黎維禑), tên khác là **Lê Duy Hi** (黎維禧), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
**Lê Quýnh** (, Nôm: 黎侗; 1750 - 1805) hay **Lê Doãn Hữu** (黎允有), là một võ quan Đại Việt triều Lê trung hưng. Ông được xem là một trung thần của vua Lê Chiêu Thống.
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
Đền Thờ Hồ Sỹ Dương: Nơi Tôn Vinh Danh Nhân Lê Trung Hưng và Kiến Trúc Đền Thờ Cổ Nghệ An Trong lòng làng Hoàn Hậu (nay là thôn 5, xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh
**Trịnh Lệ** (chữ Hán: 鄭棣, ? - ?), là Vương thân họ Trịnh dưới triều Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam. Trịnh Lệ là con trai thứ hai của đức Nghị Tổ Ân
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Nguyễn Văn Nghi** (1515-1584), người làng Ngọc Bôi, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, là một danh nho tiêu biểu thời Lê Trung Hưng. ## Sự nghiệp Xuất thân trong gia đình khoa
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Ngọc Huyền**, tên khai sinh **Vũ Hà Ngọc Huyền** (sinh ngày 28 tháng 6 năm 1970) là nghệ sĩ cải lương người Mỹ gốc Việt. Ngọc Huyền từng đoạt nhiều giải thưởng lớn tại Việt
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa XIII nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (giản thể: 中华人民共和国第十三届全国人民代表大会第一次会议 hoặc 十三届全国人大一次会议; phiên âm Hán-Việt: _Đệ thập tam Giới Toàn
**Lê Kiện** (chữ Hán: 黎鍵;1478–1529), tên thật là **Lê Duy Thành**, là hoàng tử út của vua Lê Thánh Tông, mẹ ông là Trịnh Thị Ngọc Luyện, bà chuyên về quản dạy bốn mỹ đức
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Công nữ Ngọc Hoa** (chữ Hán: 公女玉華; ?–1645), còn gọi là **Ngọc Hoa công chúa** (玉華公主), là một công nữ dưới thời các Chúa Nguyễn, được biết đến là con gái nuôi của Chúa Sãi
**Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong** (tiếng Anh: _Le Hong Phong High School for the Gifted_) là một trường trung học phổ thông chuyên tại quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
**_Án lệ 09/2016/AL_** là án lệ công bố thứ 9 thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
**Trường Trung học phổ thông Bùi Thị Xuân, Đà Lạt** là một trường trung học phổ thông công lập nằm trên đường Bùi Thị Xuân, phường 2, thành phố Đà Lạt. Trường được thành lập