Nguyễn Hữu Thận (chữ Hán: 阮有慎; 01 tháng 3, 1757- 12 tháng 8, 1831), tự Chân Nguyên, hiệu Ý Trai (hoặc Ức Trai, chữ Hán: 意齋); là nhà toán học và nhà thiên văn học, đại thần trải hai triều: nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp
Theo Phổ hệ họ Nguyễn Hữu (trước là Nguyễn Phú), Nguyễn Hữu Thận sinh vào tháng 3 năm Đinh Sửu (tức tháng 4 năm 1757, đời chúa Nguyễn Phúc Khoát) tại làng Đại Hòa, tổng An Dã, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (nay thuộc xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).
Cha ông là Nguyễn Phú Điêu, làm Huấn đạo (chức quan phụ trách việc học hành ở cấp huyện) nhà Hậu Lê, nhưng lại là người thích nghiên cứu về lịch. Sau, niềm mê say này được truyền sang Nguyễn Hữu Thận.
Tháng 5 (âm lịch) năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Huệ chỉ huy, đánh đuổi quân Trịnh ra khỏi Phú Xuân. Sau đó, Nguyễn Hữu Thận ra làm quan cho nhà Tây Sơn, rồi được cử vào Quy Nhơn. Làm quan ở đó được 9 năm, ông được triệu về làm ở Phú Xuân, dần thăng lên chức Hữu thị lang bộ Hộ.
Tháng 5 (âm lịch) năm Tân Dậu (1801), chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau lên ngôi là Gia Long) mang binh thuyền đánh chiếm Phú Xuân. Cũng như nhiều viên khác của triều Tây Sơn, ông phải ra "hiệu thuận", tức là thuận theo triều đại mới và làm việc hết sức để chuộc lỗi . Ban đầu được bổ làm Chế cáo ở Viện Hàn lâm, rồi Thiêm sự ở bộ Lại và Cai bạ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi ngày nay).
Đầu năm Kỷ Tỵ (1809), ông được điều động về kinh làm Tham tri bộ Lại. Tháng 3 (âm lịch) năm đó, ông được cử làm Chánh sứ để cùng với hai Phó sứ là Lê Đắc Tân và Ngô Thì Vị sang Thanh (Trung Quốc) dâng hai lễ cống của năm Đinh Mão (1807) và năm Kỷ Tỵ (1809). Thời gian ở Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay), ông chịu khó học hỏi và tìm mua được nhiều sách quý về lịch số và toán học.
Tháng 4 (âm lịch) năm Canh Ngọ (1810), ông trở về nước, dâng lên vua Gia Long quyển Đại lịch tượng khảo thành thơ do ông tìm được ở Trung Quốc và tấu rằng: "Lịch vạn toàn nước ta và sách Đại Thanh thời hiến bên Tàu, đều theo lịch Đại Thống nhà Minh, hơn 300 năm chưa hề sửa lại, càng lâu lại càng sai lắm. Đời Khương Hy nước Tàu, mới tham dùng phép lịch Thái Tây, làm ra quyển lịch này, mà sách này suy xét góc độ số tinh tường hơn sách Đại Thống, phép tam tuyến bát giác lại tinh xảo lắm. Xin giao học trò Khâm thiên giám theo lịch này để khảo cứu làm phép lịch, thời biết đúng độ số trời mà nhằm tiết hậu". Ngài (vua Gia Long) cho là phải . Sau đó, ông được chuyển qua làm Tham tri bộ Hộ.
Tháng Giêng năm Nhâm Thân (1812), cho ông kiêm quản việc tòa Khâm thiên giám. Năm Bính Tý 1816, ông được điều ông ra làm Hộ tào Bắc Thành, ít lâu lại trở về triều làm Thượng thư bộ Lại, nên được người dân gọi là "ông Thượng Đại Hòa".
Năm Canh Thìn (1820), Minh Mạng lên ngôi, đổi ông làm Thượng thư bộ Hộ. Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua sai ông lựa người nào học hạnh thuần cẩn, sung làm Hoàng tử trực học để dạy các hoàng tử. Trương Đăng Quế, Doãn Văn Xuân và Ngô Hữu Vĩ liền được ông cử lên và được dùng .
Năm Nhâm Ngọ (1822), lại cho ông kiêm quản Khâm thiên giám, và làm chủ nhiệm sách Vạn niên thư theo cách thức của triều Thanh.
Ngày 5 tháng 7 (âm lịch) năm Tân Mão (12 tháng 8 năm 1831), Nguyễn Hữu Thận mất, thọ 74 tuổi.
Tác phẩm
Tác phẩm chính của ông:
*Ý Trai toán pháp nhất đắc lục*, (意齋算法一得錄, một điều tâm đắc về toán pháp của Ý Trai) gồm 8 quyển, soạn xong năm 1829.
Bách ty chức chế, nói về nhiệm vụ và thể chế các ty các sở của triều Nguyễn, biên tập chung với nhiều người.
Tam thiên tự lịch đại văn chú (三千字歷代文註, Ba nghìn chữ chú giải văn chương [các đời của Trung Quốc.]
Minh Mệnh Công Văn** (明命公文).
Đóng góp về Toán học
Nguyễn Hữu Thận không chỉ am tường về thiên văn mà còn cả toán pháp. Suốt thời gian làm quan dù bận việc triều chính ông vẫn chú tâm nghiên cứu toán thuật. Sau khi về hưu, năm 1829, ở tuổi 72 ông hoàn tất bộ_ Ý Trai toán pháp nhất đắc lục._ Theo một số nhà nghiên cứu, bộ toán thư của Nguyễn Hữu Thận gồm 8 quyển (chương):
- Quyển 1: Bảng số 81 ô (9x9), khảo về việc đo lường, cân
- Quyển 2: Phép phương điền (đo diện tích ruộng đất)
- Quyển 3: Phép sai phân (tính sai số)
- Quyển 4: Phép khai bình phương (tìm căn bậc hai)
- Quyển 5: Phép câu cổ (cách tính theo tương quan giữa các cạnh bên với cạnh huyền của tam giác vuông)
- Quyển 6: Phương, viên, tà, giác, biên tuyến, diện thể (tính chu vi, diện tích các hình)
- Quyển 7: Giải 47 bài toán minh hoạ, liên quan đến phép phương trình (đại số học), và các nghiên cứu ma phương.
- Quyển 8: Phép lập phương (tìm thể tích và căn bậc 3).
Lý thuyết ma phương trước đó được nhiều nhà toán học trên thế giới nghiên cứu; nhưng ở Việt cho đến lúc bấy giờ thi hoàn toàn lạ lẫm. Nguyễn Hữu Thận đã bước vào thế giới bí ẩn của những con số và khám phá được mối liên hệ giữa chúng, như đánh giá của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn: "Lần đầu tiên một nhà toán học Việt là ông bàn tới ma phương". Không chỉ bàn tới mà Nguyễn Hữu Thận còn đi xa hơn một bước là lập những ma phương số ô chẵn, vốn phức tạp hơn; trong khi các nhà toán học nổi tiếng trước đó ở Á, Âu phần nhiều là xây dựng ma phương với ô số lẻ.
Khen ngợi, ghi công
Sử nhà Nguyễn là Quốc triều sử toát yếu đã khen ông rằng:
:''(Nguyễn Hữu) Thận tinh thiên văn và lịch học, lúc sang sứ Tàu, học được phép làm lịch lại càng thêm tinh. Ngài (Gia Long) thường bàn thiên văn với Thận, khen lắm .
Ghi nhận công lao Nguyễn Hữu Thận, tên ông được dùng để đặt tên một con đường ở Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh; và một trường Trung học phổ thông ở xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Sách tham khảo
Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2002.
Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
*Lương An, bài "Nguyễn Hữu Thận" in trong Danh nhân Bình Trị Thiên (Tập I). Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1986.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Hữu Thận** (chữ Hán: 阮有慎; 01 tháng 3, 1757- 12 tháng 8, 1831), tự **Chân Nguyên**, hiệu **Ý Trai** (hoặc **Ức Trai**, chữ Hán: 意齋); là nhà toán học và nhà thiên văn học,
**Nguyễn Hữu Phần** (10 tháng 1 năm 1948 – 22 tháng 5 năm 2024) là một đạo diễn điện ảnh và truyền hình người Việt Nam. Ông được biết đến qua các bộ phim điện
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**Nguyễn Hữu Cầu** (chữ Hán: 阮有求; 1712 – tháng 3 1751) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ 18. ## Xuất thân Ông là người xã
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
**Nguyễn Hữu Hào** (chữ Hán: 阮有豪, 1642 - 1713) là một tỳ tướng của chúa Nguyễn. Ngoài vai trò cầm quân, ông còn là thi sĩ với tác phẩm _Song Tinh bất dạ_ và một
**Nguyễn Hữu Tiến** (chữ Hán: 阮有進, 1602-1666), là một danh tướng của chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế & sự nghiệp **Nguyễn Hữu Tiến** sinh năm Nhâm Dần
**Nguyễn Hữu Bài** (chữ Hán: 阮有排; 28 tháng 9 năm 1863 - 28 tháng 7 năm 1935), Phước Môn Quận công, là một đại thần nhà Nguyễn và là một nhà cách mạng ôn hòa
**Nguyễn Hữu Tuệ** (1871-1938), tên thường gọi là **Lý Tuệ**, là người tham gia tích cực trong các hoạt động xuất dương của phong trào Đông Du và hội Duy Tân. Những đóng góp của
**Nguyễn Hữu Huân** (chữ Hán 阮有勳, 1830-1875) là một sĩ phu yêu nước và là một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19.
**Nguyễn Hữu Hạnh** (26 tháng 8 năm 1924 – 29 tháng 9 năm 2019) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng, tình báo viên
**Nguyễn Hữu Cơ** (Hán tự: 阮有機; 1804-?) là một danh sĩ và đại thần triều Nguyễn. Ông đỗ Đình nguyên Hoàng giáp khoa thi Hội năm Ất Mùi 1835, quan trường đến chức Tổng đốc
**Nguyễn Hữu Dật** (chữ Hán: 阮有鎰, 1603–1681) là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều
**Nguyễn Hữu Đang** (1913–2007) là một nhà báo, từng bị thực dân Pháp bắt tù 1930, cũng từng là thứ trưởng Bộ Thanh Niên, tham gia Mặt Trận Dân chủ Đông Dương (1937–1939), một trong
**Nguyễn Hữu Nghiêm** (chữ Hán: 阮有嚴, 1491 – tháng 1 năm 1525), người xã Thọ Khê (còn gọi là Phúc Khê, tên tục gọi là Làng Nét), huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh
**Phụ Thiên Thuần Hoàng Hậu** (chữ Hán: 輔天純皇后, 22 tháng 12 năm 1870 - 19 tháng 11 năm 1935), còn được gọi là **Đức Thánh Cung** (德聖宮), là chính thất của Đồng Khánh hoàng đế
**Nguyễn Hữu Có** (1925 – 2012) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Võ
**Nguyễn Hữu Lập**, tự **Nọa Phu**, hiệu **Thiếu Tô Lâm tiên sinh**, quê ở làng Trung Cần, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Ông sinh ra trong một gia đình có truyền
**Nguyễn Hữu Hùng** (26 tháng 7 năm 1970 - 13 tháng 10 năm 2020) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thiếu tướng. Tại thời điểm gặp nạn, ông giữ
**Nguyễn Hữu Tiến** (阮有進, 1875-1941), hiệu **Đông Châu** (東洲). là một nhà nghiên cứu cộng tác đắc lực với tạp chí Nam Phong. Quê ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay
**Nguyễn Hữu Cầu** (1879-1946), hiệu **Giản Thạch**, thường được gọi "Ông Cử Đông Tác" là một nhà nho tiến bộ, đồng sáng lập viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục (viết tắt ĐKNT) năm 1907 tại
Thượng tướng, Phó Giáo sư **Nguyễn Hữu An** (1926-1995) là một tướng lĩnh quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông tham gia Kháng chiến chống Pháp, Kháng chiến chống
**Nguyễn Hữu Tảo** (1900-1966), là một nhà giáo Việt Nam trong thế kỉ 20, người đặt nền móng cho bộ môn Tâm lý - Giáo dục học Việt Nam. Ông cũng là thầy dạy của
**Nguyễn Hữu Trí** (1903 – 1954) là nhà chính trị Việt Nam, nguyên Thủ hiến Bắc phần của chính thể Quốc gia Việt Nam thập niên 1950. Nguyễn Hữu Trí đồng thời là Tổng bí
**Nguyễn Hữu Hoài** (sinh năm 1958) là một chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Chủ tịch (thứ 15) Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình. ##
**Nguyễn Hữu Cầu** (sinh ngày 20 tháng 11 năm 1962 tại xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân
**Nguyễn Hữu Đông** (sinh ngày 20 tháng 9 năm 1972) là một chính khách Việt Nam. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông hiện giữ chức vụ Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
thumb|Ảnh chụp tại [[công viên Văn Thánh tháng 04 năm 2014]] nhỏ|Ông Nguyễn Hữu Cầu **Nguyễn Hữu Cầu** (năm 1947 - ngày 19 tháng 12 năm 2022), cựu sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng
**Nguyễn Hữu Khôi** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam thi đấu ở vị trí tiền đạo cho Khánh Hòa. ## Sự nghiệp Nguyễn Hữu Khôi
**Nguyễn Hữu Chiến Thắng** (sinh ngày 15 tháng 6 năm 1973 tại Hà Nội) là một người dẫn chương trình Việt Nam. Anh được biết đến với chất giọng trầm khàn đầy truyền cảm, đặc
**Nguyễn Hữu Hanh** (sinh 1923) là một chuyên gia kinh tế, tài chánh đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong cả thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa cũng như trên
**Nguyễn Hữu Đàn** (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1974) là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông hiện là Đại tá, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị, Phó Bí
**Nguyễn Hữu Kim Sơn** (sinh ngày 15 tháng 3 năm 2002) là một nam vận động viên thuộc đội tuyển bơi lội quốc gia Việt Nam. Được mệnh danh là "thần đồng bơi lội" của
**Nguyễn Hữu Chính** (sinh 1959) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2015-2019) ## Thân thế và sự nghiệp
**Nguyễn Văn Thân** (sinh 1945) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, Tiến sĩ, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, là đại biểu Quốc
**Nguyễn Hữu Thí** (1899 – ?) là bác sĩ người Việt Nam từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Tiếp tế trong chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam từ tháng 4 cho
**Nguyễn Hữu Cường** (sinh 1954) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên là Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu 4 ## Thân
**Nguyễn Hữu Vạn** (sinh 1956) là cựu chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Tổng Kiểm toán Nhà nước Việt Nam. Ông có bằng Tiến sĩ Kinh tế và Cử nhân Lý luận chính trị
**Nguyễn Hữu Độ** (sinh năm 1962) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. ## Xuất thân Ông sinh ngày 29 tháng
**Nguyễn Hữu Đức** (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1971) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, XIV, thuộc đoàn đại biểu Bình Định, Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế của
**Nguyễn Hữu Đức** (sinh ngày 20 tháng 2 năm 1966) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 nhiệm kì 2011-2016, thuộc đoàn đại
**Nguyễn Văn Thân** (sinh ngày 07 tháng 7 năm 1958) là một Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, nguyên Giám đốc Công an Tỉnh Bình
**Nguyễn Hữu Thìn** (sinh năm 1951) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng. ## Thân thế
Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh và Đình Châu PhúẢnh: Danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh Châu Đốc với lịch sử hình thành hơn 2.600 năm, bao thế hệ người dân Việt đã đến đây khai
Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh và Đình Châu PhúẢnh: Danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh Châu Đốc với lịch sử hình thành hơn 2.600 năm, bao thế hệ người dân Việt đã đến đây khai
**Nguyễn Hữu Cương** (1855-1912) là một nhà cách mạng Việt Nam hoạt động tích cực chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. ## Tiểu sử Nguyễn Hữu Cương sinh năm 1855,ông
**Nguyễn Hữu Liêu** (阮有僚, 1532-1597) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là người làng Tây Đam, nay là xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia