Nguyễn Hữu Tuệ (1871-1938), tên thường gọi là Lý Tuệ, là người tham gia tích cực trong các hoạt động xuất dương của phong trào Đông Du và hội Duy Tân. Những đóng góp của ông trong các phong trào yêu nước này nhiều lần được ghi lại trong tác phẩm của các chí sĩ nổi tiếng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh.
Thân thế và sự nghiệp
Xuất thân
Nguyễn Hữu Tuệ sinh năm 1871 tại làng Gia Viên (nay thuộc huyện An Dương, thành phố Hải Phòng), trong một gia đình nhà nho. Tuy nhiên, trong suốt quãng đời tham gia hoạt động trong các phong trào yêu nước sau này, ông thường được các bằng hữu gọi tên là Lý Tuệ. Khi trưởng thành, gia đình gặp vận hạn, Nguyễn Hữu Tuệ phải đi làm thuê trong bến Sáu Kho (nay là Cảng Hải Phòng) để kiếm sống. Sau đó, ông xin làm nghề bồi bếp trên tàu biển (di chuyển qua lại chủ yếu giữa miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc).
Những đóng góp thầm lặng
Là một đầu bếp, nhưng xuất thân trong một gia đình nhà nho, ở một làng khoa bảng ông sớm nhận thức và chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng mới. Ông đã chủ động hòa nhập vào làn sóng đó bằng việc tham gia góp sức cho phong trào Đông Du và hội Duy Tân.
Trong Tự phán, cuộc gặp gỡ với Nguyễn Hữu Tuệ (Lý Tuệ) lần đầu tiên đã được nhà chí sĩ Phan Bội Châu ghi lại trong lần xuất dương đầu tiên của ông cùng với Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính vào tháng Giêng, năm Ất Tị (1905): "Lúc đó, chủ thuyền toan đi Hương Cảng buôn, chúng tôi bèn đi thuyền của chủ ấy, ngồi tàu buồm đến Bắc Hải, trót sáu ngày, đổi sang ngồi tàu lửa Tây đến Hương Cảng. Chiếc tàu ấy là Ái Vu. Trong lúc vô ý được một người bạn rất tốt tên là Lý Tuệ... Thượng tuần tháng hai, tàu tới Hương Cảng, có người khách sạn xuống bán vé. Chúng tôi mua vé Thái Yên khách sạn, mới hẹn với ông Lý Tuệ đến đây nói chuyện... Lại một ngày sau thì ông Lý Tuệ lên tìm chúng tôi ở khách sạn. Trong lúc nói chuyện ông rất hiểu đại nghĩa và rất chán nghề làm bồi dưới tàu. Chúng tôi mới đem chân tình việc đi này cáo với ông. Ông cảm động một cách lạ thường, xin hết sức giúp tân đảng, như đưa ngầm tiền bạc, gửi ngầm học sinh, cho đến thư tín ở trong ra, ở ngoài vào, rành một tay ông đảm nhận, trót mấy năm trời không sai suyển tý gì, mà lại tuyệt không nói đến trả ơn trả công. Tấm lòng trung thành càng lâu càng bền chặt. Em ông là ông Lý Tư cũng không kém gì ông."
Phan Bội Châu trong Ngục trung thư đã có những đánh giá về Lý Tuệ (Nguyễn Hữu Tuệ): "...Lý Tuệ là người có gan dạ, mưu mô, thâm hiểu nghĩa lớn. Về sau, ông ta ngầm giúp công việc kia khác cho đảng chúng tôi được nhiều lắm. Lúc này tìm cách đưa tôi xuất dương, ấy là bước đường thứ nhất của ông ta dấn mình vào quốc sự vậy. Thật là một người hăm hở làm việc nghĩa, gặp nạn coi chết như không. Tôi không ngờ lúc mình gió bụi xông pha lại được gặp người như thế."
Lý Tuệ không phải là một tên tuổi gắn liền với những yếu nhân của hội Duy Tân, cũng không là người sáng lập, hay vận động cho phong trào Đông Du. Tuy nhiên, qua Tự phán, ông để lại dấu ấn của mình trong các phong trào này bằng những việc làm thầm lặng, nhưng đóng vai trò hết sức lớn lao. Ông đã đảm nhận việc liên lạc, bảo vệ cho số thanh niên trong nước ra nước ngoài du học với những việc bí mật và đầy nguy hiểm nếu bị chính quyền thực dân và mật thám phát hiện như việc chuyển tiền bạc, giấu du học sinh, chuyển thư tín: "...thư in vài trăm bản, cậy ông Lý Tuệ lén đưa vào trong nước, tôi cũng ủy Đặng Tử Kính vào trong nước hiệp đồng với ông Tăng (Tăng Bạt Hổ) chia đường chạy khắp Nam Bắc, tuyên bố các món văn thư như trên kia đã kể..."
Không chỉ Phan Bội Châu, nhiều nhà yêu nước, nhà cách mạng khi xuất dương cũng đã tìm đến Lý Tuệ như là một chỗ nhờ vả đáng tin cậy vì trong hoàn cảnh lúc bấy giờ "chính phủ Pháp không cho người Việt Nam mình có quyền tự do lai vãng. Phàm ai muốn ra xứ ngoài du lịch hay là buôn bán, nếu không được bảo hộ cho phép thì tất bị buộc tội ngầm thông với nước ngoài, mưu chuyện làm loạn".
Nhà nghiên cứu Huỳnh Lý cho biết: "Phan Châu Trinh đến Hải Phòng tìm những người đã giúp cho Phan Bội Châu xuất dương là Lý Tuệ và Lý Tư và nói thật cho họ. Sau đó ông ăn vận quần áo như công nhân làm dưới tàu và được Lý Tuệ đưa xuống tàu. Đến Quảng Châu Loan, ông suýt bị lộ, phải lên bờ, sau đó lại nhờ Lý Tuệ cải trang thành thương nhân Trung Hoa, xuống tàu tiếp tục đi..."
Trong bài Cảm tưởng nhân ngày kỷ niệm cụ Tây Hồ năm thứ mười một của Phan Bội Châu, có đoạn do chính Phan Châu Trinh kể về hành trình xuất dương với sự giúp đỡ của Lý Tuệ: "May nhờ lão Lý Tuệ làm đầu bếp chiếc hỏa thuyền Ái Vu nhận tôi làm tên bếp phụ. Lão nhốt chặt trong khoang bếp tàu, khách và chủ trong thuyền chả ai biết mặt tôi. Hễ có ai đi gần, thời ngoảnh mặt vào trong bếp than đá một mực đốt than. Trót 12 ngày thuyền mạn về Hải Nam, Quảng Châu Loan, Bắc Hải, lão chẳng cho tôi ló cổ ra ngoài một phút, vì những nơi ấy có quân lính Pháp, mà cũng có thông ký, bồi bếp ta. Tôi đến thấu Hương Cảng thỏi thăm anh em, biết được anh mới về đây, nên vội đi cho gấp nên chẳng kịp thay đồ ăn mặc".
Sự cẩn trọng đầy trách nhiệm của Lý Tuệ trong các hoạt động xuất dương của tổ chức đã được ghi nhận nhiều lần qua lời kể của các chí sĩ. Điều đó cho thấy Lý Tuệ đã đảm nhận một vị trí không thể thiếu trong các hoạt động này. Bên cạnh Lý Tuệ, em trai ông là Lý Tư, cũng đóng góp hết sức tích cực cho phong trào. Cũng chính vì những hành động yêu nước tích cực của mình mà hai ông đã bị chính quyền thực dân bắt giữ, đến lúc bị tra tấn dã man cũng không hề khai báo.
Ghi nhận
Cảm kích trước nghĩa cử của ông, Phan Bội Châu đã đề tặng những dòng chữ trong ảnh chân dung của Lý Tuệ như sau:
:"Nguyễn Hữu Tuệ quân chi chiếu tướng. Quân xu nghĩa nhược khát. Cấp nạn vong tử. Đầu thân quốc sự phàm thập niên. Phan Châu Trinh, Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Cường Để, Nguyễn Thượng Hiền dĩ cập Đông Độ chi thiếu niên giai quân mật tống. Sự tiết bị tù. Kỷ tử nhưng bất cải"
::Dịch nghĩa:
:"Ông đến với việc nghĩa như người khát nước, gấp rút cứu nạn quên cả cái chết. Dấn thân vào việc nước trong mười năm. Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Phan Châu Trinh, Cường Để, Nguyễn Thượng Hiền cho đến các thiếu niên Đông Độ đều đo ông đưa đón. Việc bại lộ, ông bị tù. Nhiều phen tưởng chết nhưng chí không thay đổi."
Do hậu quả của những trận đòn tra tấn và chế độ khắc nghiệt trong nhà tù, lại thêm tuổi già sức yếu, Lý Tuệ từ trần tại Hải Phòng ngày 26-10-1938 (tức ngày 4-9 Mậu Dần). Lúc đó, Thành ủy Hải Phòng đã chỉ đạo Hội Ái hữu thương thuyền Hải Phòng đứng ra tổ chức lễ tang ông một cách trọng thể. Đám tang trở thành một cuộc diễu hành của quần chúng, gây tiếng vang lớn.
Được tin Nguyễn Hữu Tuệ mất, nhà chí sĩ Phan Bội Châu đang bị chính quyền thực dân Pháp quản thúc tại Huế, đã gửi câu đối viếng ông:
:Sống với giang san, chết với giang san, giữa đám than tro vàng mới quý,
:Buồn vì chủng tộc, vui vì chủng tộc, trước hồn thần thánh phách càng linh.
Tên của ông (Nguyễn Hữu Tuệ) được đặt cho một đường phố ở Hải Phòng. Ông cũng được thờ trong đền Tiên Nga, nơi đã in dấu ấn hoạt động vì nghĩa cứu quốc của ông. Phan Bội Châu từng có quan niệm "bình thường hóa anh hùng". Theo quan niệm đó, ngoài những bậc anh hùng phi thường xuất chúng, thì con người, trước hết cần phải "lấy nhiệt thành làm chính", sẵn sàng hành động vì đại nghĩa cũng như vì quyền lợi chung của dân tộc. Xét theo quan điểm này, thì Nguyễn Hữu Tuệ (Lý Tuệ) xứng đáng được coi là một bậc anh hùng. Một người anh hùng thầm lặng đã có những đóng góp lớn lao cho hoạt động của hội Duy Tân và phong trào Đông Du.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Hữu Tuệ** (1871-1938), tên thường gọi là **Lý Tuệ**, là người tham gia tích cực trong các hoạt động xuất dương của phong trào Đông Du và hội Duy Tân. Những đóng góp của
**Nguyễn Hữu Cầu** (1879-1946), hiệu **Giản Thạch**, thường được gọi "Ông Cử Đông Tác" là một nhà nho tiến bộ, đồng sáng lập viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục (viết tắt ĐKNT) năm 1907 tại
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Nguyễn Hữu Khai** (1953–2018) là một doanh nhân tại Việt Nam, chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Bảo Long. ## Tiểu sử * Nguyễn Hữu Khai sinh ra trong một gia đình đông
**Nguyễn Hữu Ba** (1914 - 1997), là nhạc sĩ tân nhạc, nhà nghiên cứu, nhạc sư cổ nhạc Việt Nam, nguyên Giám đốc Trường Quốc gia Âm nhạc Huế, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban
**Nguyễn Hữu Mai** tức Nguyễn Từ (1914-1987), quê ở tại Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, là nhà hoạt động cách mạng, nhà chính trị Việt Nam, Ủy viên Ban
**Viện Sở hữu trí tuệ quốc gia** (tiếng Anh: _Vietnam Intellectual Property Research Institute_, viết tắt _VIPRI_) là cơ quan sự nghiệp Khoa học và Công nghệ công lập trực thuộc Bộ Khoa học và
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Nguyễn Hữu Châu** (sinh ngày 22 tháng 1 năm 1966), thường được biết đến với nghệ danh **Hữu Châu**, là một nam diễn viên người Việt Nam. ## Tiểu sử Hữu Châu sinh ngày 22
**Đồng Sĩ Nguyên** (1 tháng 3 năm 1923 – 4 tháng 4 năm 2019), còn được viết là **Đồng Sỹ Nguyên**, tên thật **Nguyễn Hữu Vũ**, là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Hồng Y** (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 1833 – 23 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu **Thụy Thái vương** (瑞太王) (còn được đọc trại thành **Thoại Thái vương**), biểu tự **Quân
Tượng [[Thích-ca Mâu-ni tu khổ hạnh theo phong cách Phật giáo Hy Lạp hóa, khoảng thế kỷ thứ 2–3, Gandhara (nay thuộc miền đông Afghanistan), Bảo tàng Lahore, Pakistan.]] **Phật giáo Nguyên thủy**, còn gọi
**Cục Sở hữu trí tuệ** (tiếng Anh: Intellectual Property Office of Viet Nam, viết tắt là **IP Viet Nam**) là cơ quan trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, thực hiện chức năng giúp
**Thích Minh Tuệ** (pháp danh, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1981), tên khai sinh là **Lê Anh Tú**, là một khất sĩ thực hành hạnh đầu đà của Phật giáo Nguyên thủy người Việt
**Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới** (tiếng Anh: _World Intellectual Property Organization_ – **WIPO**; tiếng Pháp: _Organisation mondiale de la propriété intellectuelle_ – **OMPI**) là một trong những cơ quan chuyên môn của
**Trí tuệ nhân tạo tổng quát** (**Artificial general intelligence**, hay **AGI**) là một loại trí tuệ nhân tạo (AI) trong lý thuyết, nằm giữa cận dưới và cận trên của năng lực nhận thức con
**Trịnh Tuệ** (chữ Hán: 鄭橞; 1701–?), trước có tên là **Trịnh Huệ**, sau vì trùng tên với Tuyên Phi Đặng Thị Huệ nên đổi sang là _Trịnh Tuệ_, hiệu là **Cúc Lam**, là vị Trạng
**Tài sản sở hữu** hay **sản nghiệp** trong bản trích yếu là những gì thuộc về hoặc với một cái gì đó dù là một thuộc tính hoặc là một thành phần của điều được
**_Siêu trí tuệ Việt Nam_** () là một chương trình truyền hình tìm kiếm tài năng về trí tuệ do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và công ty Vie Channel (trước đây
**Trí tuệ nhân tạo** (**TTNT**) (tiếng Anh: **_Artificial intelligence_**, viết tắt: **_AI_**) là khả năng của các hệ thống máy tính thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến trí thông minh của con người,
**Nguyễn Phúc Nhàn Tuệ** (chữ Hán: 阮福嫻慧; 18 tháng 12 năm 1835 – 10 tháng 2 năm 1863), phong hiệu **Mỹ Thuận Công chúa** (美順公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
Mùa đầu tiên của chương trình **_Siêu trí tuệ Việt Nam_** do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và Công ty DID TV (sau đổi tên là Vie Channel) thuộc DatVietVAC thực hiện,
**Nguyễn Phú Trọng**, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, từ trần vào hồi 13 giờ 38 phút, ngày 19 tháng 7 năm
Đây là bài con của **Trí tuệ nhân tạo**, nội dung chú trọng vào sự phát triển và **lịch sử ngành trí tuệ nhân tạo**. ## Sự phát triển của lý thuyết trí tuệ nhân
nhỏ|Hình ảnh biểu trưng cho Thuyết đa trí tuệ **Thuyết đa trí tuệ** là một lý thuyết về trí thông minh của con người được nhìn nhận bằng nhiều cách, mang tính đa dạng, được
**Nguyễn Hiền** (chữ Hán: 阮賢, 11 tháng 3, 1234 - 05 tháng 9, 1256) là trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam, khi mới mười ba tuổi. Cuộc đời ông gắn
**Ninh Hữu Hưng** (甯有興) là người được nhiều làng nghề ở Việt Nam tôn xưng là vị tổ xưa nhất của nghề mộc Việt Nam, do đó được coi như vị tổ nghề xây dựng
**Nguyễn Đình Thi** (1924–2003) là một nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà phê bình văn học, chính trị gia Việt Nam thời hiện đại. Ông là đại biểu Quốc hội các khóa I, II,
**Nguyễn Trọng Thuật** (Chữ Hán: 阮仲述; 1883–1940), bút danh **Đồ Nam Tử** (圖南子), **Quảng Tràng Thiệt cư sĩ**; là nhà văn Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. ## Tiểu sử **Nguyễn Trọng Thuật**
**Bảng tra cứu dãy số nguyên trực tuyến** (_The On-Line Encyclopedia of Integer Sequences_), hay đơn giản là **Sloane's**, là cơ sở dữ liệu chuỗi số nguyên trực tuyến. Bảng được tạo ra và bảo
Sau đây là **danh sách các dự án trí tuệ nhân tạo** trong hiện tại và quá khứ đáng chú ý. ## Các dự án chuyên ngành ### Mô phỏng bộ não con người *
**Vương Hữu Phu** (1880-1941) còn có tên là Vương Đình Thụy, húy Bảy, tự Vi Tử, sinh ngày 5 tháng12, năm Canh Thìn (1880), tại thôn Long Vân, xã Vân Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh
Trong trí tuệ nhân tạo, **khung** là một dạng cấu trúc dữ liệu, tức là cách mà thông tin được tổ chức, lưu trữ và truy cập. Ý tưởng của khung là chia nhỏ tri
**Nguyễn Thời Trung** (sinh năm 1976 tại Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận) là một nhà khoa học người Việt. Anh hiện là Phó giáo sư, Viện trưởng Viện Khoa học tính toán và Trí tuệ
**Nguyễn Công Trứ** (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858), tự **Tồn Chất**, hiệu **Ngộ Trai**, biệt hiệu **Hi Văn**, là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ Đại Nam thời nhà Nguyễn. Ông
**Nguyễn Trung Ngạn** (chữ Hán: 阮忠彥;1289–1370), tự là **Bang Trực**, hiệu là **Giới Hiên**, là một nhà chính trị, một đại thần có tài của nước Đại Việt thời nhà Trần, được xếp vào hàng
**Nguyễn Thiên Nga** là Hoa hậu Việt Nam 1996. Cô đăng quang ngôi vị trong đêm chung kết được tổ chức tại _cung văn hóa hữu nghị Việt Xô_, Hà Nội. Khi đó cô đang
**Chủng viện Đức Mẹ Vô Nhiễm – Bùi Chu** hay **Đại Chủng viện Bùi Chu** (**Immaculate Conception Major Seminary in Bùi Chu - ICSB**), tọa lạc tại xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam
**Nguyễn Văn Đài** (sinh năm 1969) là một luật sư và nhân vật bất đồng chính kiến người Việt Nam. Ông từng bảo vệ nhiều vụ án nhân quyền và tôn giáo như vụ xử
**Nguyễn Chấn** (1924-?) là nhà cách mạng, nhà nghiên cứu và chính khách Việt Nam, từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Điện và Than Việt Nam, Tổng cục trưởng Tổng cục Hóa chất, Đại biểu
**Nguyễn Cảnh Toàn** (28 tháng 9 năm 1926 – 8 tháng 2 năm 2017) là một Giáo sư Toán học Việt Nam, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư
:_Bài này chỉ nói về trạng nguyên ở Việt Nam. Xem các nghĩa của nó khác nhau ở chỗ nào, bao gồm nghĩa trạng nguyên ở các nước khác, tại trạng nguyên (định hướng)_ **Trạng
**Nguyễn Khánh Toàn** (sinh năm 1945) là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông từng giữ chức Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an Việt Nam, Phó Bí thư
Thiền sư **Nguyên Thiều** (chữ Hán: 元韶, 1648-1728) là một thiền sư người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33, nhưng sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ 17. Ông
**Nguyễn Hy Quang** (1634-1692), húy **Vẹ**, tự **Hy Quang**, là một nhà giáo, đại thần nhà Lê trung hưng đã phụ đạo cho Thái phó Lương Mục Công Trịnh Vịnh, đích tôn của chúa Trịnh
**Nguyễn Tiểu Thất** (阮小七, Ruǎn Xiǎoqī) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết _Thủy Hử_ của nhà văn Thi Nại Am. Ông là em út trong ba anh em họ Nguyễn (Nguyễn Thị
**Nguyễn Danh Dự** (1657-1714), tự **Đôn Tĩnh**, hiệu **Chất Trai**; là danh thần triều Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử sơ lược **Nguyễn Danh Dự** sinh ra trong một gia