Nguyễn Hữu Hào (chữ Hán: 阮有豪, 1642 - 1713) là một tỳ tướng của chúa Nguyễn. Ngoài vai trò cầm quân, ông còn là thi sĩ với tác phẩm Song Tinh bất dạ và một số áng thơ Nôm.
Tiểu sử
Quê tổ của ông ở hương Gia Miêu, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa, nhưng bản thân ông được sinh trưởng ở Phú Xuân. Ông là hậu duệ đời thứ 9 của danh thần Nguyễn Trãi và là cháu nội của Tham tướng Chưởng cơ Nguyễn Triều Văn (dòng Nguyễn Hữu, tước Triều Văn hầu, phò nhà Lê sơ và Nguyễn sơ), con trưởng Chiêu Võ hầu Nguyễn Hữu Dật, và là anh Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh.
Năm 1609, ông nội ông theo chúa Nguyễn Hoàng vào Nam và cuối cùng định cư ở Thừa Thiên. Ngay từ trai trẻ, Nguyễn Hữu Hào thường theo cha dự các trận đánh lớn, bộc lộ nhiều dũng lược và tài dùng binh; cho nên vào năm Kỷ Tỵ (1689), ông được bổ làm Cai cơ, Thống binh.
Cũng vào năm ấy, có tướng Mai Vạn Long, sau khi đánh đuổi vào Hoàng Tiến nhưng bình Chân Lạp không thành, ông được cử làm Đốc suất vào thay. Khiếp sợ quân hùng tướng mạnh, vua Chân Lạp là Nặc Ông Thu sai sứ đến qui hàng, các tham mưu muốn thừa cơ đánh úp, nhưng ông không đồng ý...
Theo vài sử liệu, thì Nguyễn Hữu Hào cũng như Mai Vạn Long đều bị trúng đòn "mỹ nhân kế" của một cô gái Chân Lạp gốc Chiêm Thành rất đẹp, giỏi biện thuyết tên là Chiêm Dao Tân (hoặc Chiêm Dao Luật).Vì thế cả hai ông đều bị gièm là cố ý làm trễ việc quân, rồi đều bị chúa Nguyễn lột hết chức tước...
Tháng 8 năm Tân Mùi (1691), chúa Nguyễn Phúc Trăn mất, Nguyễn Phúc Chu nối nghiệp, Nguyễn Hữu Hào được phục chức Cai cơ. Tháng 10 năm Giáp Thân (1704) được thăng Chưởng cơ, làm Trấn thủ Quảng Bình.
Năm Quý Tỵ (1713) ông mất, được truy tặng là Đôn Hậu công thần trấn thủ, tên thụy là Nhu Từ.
Trong khi cầm quân cũng như lúc làm quan, ông lo việc quân sự, huấn luyện quân đội, săn sóc đời sống dân chúng nên ai nấy đều kính mến. Đại Nam thực lục khi chép về ông đã khen rằng biết "vỗ yên trăm họ, yêu nuôi sĩ tốt, được quân dân mến phục".
Song Tinh Bất Dạ
Giới thiệu
Song Tinh Bất Dạ được Nguyễn Hữu Hào viết trong những năm làm trấn thủ Quảng Bình (1704-1713). Đây là tác phẩm diễn nôm từ truyện Định tình nhân (những người có tình gắn bó) của một tác giả không rõ tên, người Trung Quốc sống vào khoảng cuối nhà Minh đầu nhà Thanh.
Tác phẩm này từng bị thất lạc trong nhiều năm. Đầu thế kỷ 20, nhà nho Lâm Hữu Lân phát hiện được bản in năm Gia Long thứ nhất (1802) nhan đề Song Tinh truyện. Sau khi ông đã phiên âm, năm 1962, cháu ông là nhà thơ Đông Hồ đã cho công bố tại Sài Gòn.. Nhưng đó là bản chưa sát với bản Nôm, phải đến năm 1987, Hoàng Xuân Hãn mới công bố tiếp bản phiên âm chính xác hơn.
Lược truyện
Cha của Song Tinh tự Bất Dạ là quan đồng liêu thân thiết với Ngự sử Giang Chương, tự Giám Hồ. Nên khi Song Tinh chào đời, ông đã cho bạn nhận Song Tinh làm con nuôi. Sau đó, vợ Giám Hồ sinh một người con gái là Nhụy Châu.
Thế rồi cha Song Tinh mất, hai gia đình cách trở mãi cho đến khi Song Tinh lớn lên. Nghe lời mẹ, Song Tinh tìm đến nhà họ Giang, xin trọ học ở đó.
Gần gũi, Song Tinh và Nhụy Châu yêu nhau, nhưng gặp một trở ngại, về danh nghĩa họ là anh em. Song Tinh tương tư tuyệt vọng suýt chết. Vì thương cảm, bố mẹ Nhụy Châu hứa sẽ gả con gái cho.
Dốc chí học, Song Tinh thi đỗ Trạng nguyên. Đỗ phò mã muốn Song Tinh làm rể của mình nhưng bị từ chối, nên lập mưu đẩy chàng đi đánh giặc Phiên...
Ở nhà Nhụy Châu bị Hách Nhược Sinh, con một đại quan, đến cầu hôn. Bị từ chối, Sinh lập mưu đưa nàng tiến cung. Giữa đường, Nhụy Châu tự tử, nhưng được hai đày tớ của Song tinh cứu sống, đưa nàng về ở nhà mẹ Song Tinh.
Ngoài biên cảnh, vì phục tài Song Tinh nên đối phương chịu xưng thần với Triều đình. Khi về đến nhà, Song Tinh đau đớn khi biết Nhụy Châu đã chết. Theo di ngôn của nàng, Song Tinh cưới Thể Vân, thị tỳ của Nhụy Châu, nhưng không chung chăn gối để giữ trọn niềm chung thủy.
Lấy cớ bận việc quân, Song Tinh cho Thể Vân sang nhà phụng dưỡng mẹ. Ở đấy, Nhụy Châu và Thể Vân gặp nhau. Ít lâu sau Song Tinh trở về, gặp Nhụy Châu ở nhà mẹ. Hai người kết lại duyên xưa, gia đình sum họp.
Đánh giá
Truyện miêu tả một cuộc tình duyên tự do, vượt ra ngoài ràng buộc của lễ giáo phong kiến; vượt qua những thành kiến hẹp hòi và cường quyền, bạo lực để cuối cùng kết thúc bằng sự thắng lợi của tình yêu chung thủy. Truyện cũng tố cáo lối sống xa hoa và tính cách độc ác, hèn hạ của vua chúa phong kiến, đề cao chính nghĩa cùng khát vọng hạnh phúc lứa đôi... Lời thơ tuy mộc mạc bình dị đôi chỗ còn thô sơ, vụng về... nhưng là một trong những tác phẩm buổi đầu khá thành công của thể truyện Nôm Việt Nam thế kỷ thứ 18..
Giai thoại liên quan
Năm Kỷ Tỵ (1689), vua Chân Lạp là Nặc Thu bỏ việc cống nạp. Chúa Nguyễn Phúc Trăn sai thống binh Mai Vạn Long đi hỏi tội. Nặc Thu cử Chiêm Dao Luật, một người con gái trẻ đẹp làm sứ giả, đem vàng bạc biếu Vạn Long, xin được chậm cống nạp. Cai cơ Nguyễn Thắng Sơn khuyên không nên mắc lừa vua Chân Lạp, nhưng Vạn Long không nghe, nên khi Thắng Sơn mật báo về chúa Nguyễn, Nguyễn Hữu Hào liền được lệnh vào thay thế Vạn Long.
Năm Canh Ngọ (1690), chúa Nguyễn Phúc Thái lại sai Nguyễn Hữu Hào hối thúc Chân Lạp cống nạp. Lần này Dao Luật cũng lại đến hẹn. Các tướng tức giận đòi bắt giam sứ giả rồi đem quân tiến đánh Nặc Thu, nhưng Nguyễn Hữu Hào không cho.
Vài hôm sau, Dao Luật cùng Ốc nha A Lặc Thi đem 20 thớt voi nhỏ, 100 lạng vàng, 500 lạng bạc đến cống rồi nài nỉ xin chậm nộp số lễ vật hãy còn thiếu. Các tướng Nguyễn lại xin đánh, Hữu hào gạt đi, nói: "Yên vỗ người xa, quý lễ không quý vật." rồi ra lệnh rút quân về đóng ở Bà Rịa. Tin mật lập tức được chuyển về cho chúa Nguyễn. Tháng 8 năm Canh Ngọ (1690), khi Nguyễn Hữu Hào vừa về tới Thuận Hóa, liền bị bãi hết chức tước.
Sách Thanh Hóa, nghìn xưa lưu dấu kể:
Sau khi bị bãi hết chức quan, một hôm Nguyễn Hữu Hào đi làm phu đắp đê, gặp được Vạn Long đang ngồi ung dung câu cá bên sông. Vạn Long lên tiếng trước: Tôi nghe ông bảo Dao Luật rằng "Ta không giống như Vạn Long đâu!" Ai ngờ bây giờ ông cũng chẳng khác gì Vạn Long! Hữu Hào cười nói: Phải, tôi và ông nay đều là thứ nhân cả, nhưng ông vì tham vàng lụa, còn tôi lại tham nhân nghĩa, tưởng giống nhau mà rất khác nhau... Nguyễn Hữu Hào về vườn cũ từ tháng 8 năm Nhâm Ngọ (1690) đến tháng 8 năm Tân Mùi (1691), tính ra vừa đúng một năm, thì được phục chức.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Hữu Hào** (chữ Hán: 阮有豪, 1642 - 1713) là một tỳ tướng của chúa Nguyễn. Ngoài vai trò cầm quân, ông còn là thi sĩ với tác phẩm _Song Tinh bất dạ_ và một
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Nguyễn Hữu Dật** (chữ Hán: 阮有鎰, 1603–1681) là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều
nhỏ|Giáo sư Nguyễn Thúc Hào **Nguyễn Thúc Hào** (6 tháng 8 năm 1912 – 9 tháng 6 năm 2009) là một giáo sư người Việt Nam. Ông đã từng giữ chức Hiệu trưởng Trường Đại
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**Nguyễn Hữu Liêu** (阮有僚, 1532-1597) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là người làng Tây Đam, nay là xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông
## Tiểu sử Thiếu tướng Nguyễn Hữu Vị, tên thường gọi: Tám Vị Ông sinh năm 1930, qua đời ngày 12 tháng 12 năm 2018, hưởng thọ 89 tuổi. Ông nguyên là Ủy viên Ban
**Nguyễn Hữu Lập**, tự **Nọa Phu**, hiệu **Thiếu Tô Lâm tiên sinh**, quê ở làng Trung Cần, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Ông sinh ra trong một gia đình có truyền
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Cuộc nổi dậy Đoàn Hữu Trưng** xảy ra vào ngày 16 tháng 9 năm 1866 do Đoàn Hữu Trưng khởi xướng, có thể gọi là _cuộc đảo chính lần thứ ba_ dưới triều vua Tự
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Văn Thiên Tường** (, 6 tháng 6, 1236 - 9 tháng 1, 1283) là thừa tướng trung nghĩa lẫm liệt nhà Nam Tống, một thi sĩ nổi tiếng mà tư tưởng yêu nước đã thấm
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
thế=Groups of two to twelve dots, showing that the composite numbers of dots (4, 6, 8, 9, 10, and 12) can be arranged into rectangles but the prime numbers cannot|nhỏ| Hợp số có thể được
**Cao Hảo Hớn** (1926-2010) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khoá đầu tiên tại trường Võ bị Liên quân
**Bát thập chủng hảo** tiếng Việt **Tám mươi vẻ đẹp** (zh. _bāshízhǒng hăo_ 八十種好, sa. _aśīty-anuvyañjanāni_, ja. _hachijisshu gō_, bo. _dpe byed bzang po brgyad bcu_ དཔེ་བྱེད་བཟང་པོ་བརྒྱད་བཅུ་), cũng được gọi là **Bát thập tùy hảo**
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Trần Văn Hữu** (1896 – 1984) là Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Quốc gia Việt Nam từ tháng 5 năm 1950 đến tháng 6 năm 1952. ## Tiểu sử ###
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
**Bùi Hữu Nhơn** (1928 - 2022) nguyên là một tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Viễn đông
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
Đình Đông Phù, Thanh Trì là nơi thờ sứ quân Nguyễn Siêu **Nguyễn Siêu** (chữ Hán: 阮超; 924 - 967) hiệu _Nguyễn Hữu Công_ (阮右公) là một sứ quân nổi dậy thời loạn 12 sứ
**Nguyễn Quang Hải** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ
**Nguyễn Bá Cẩn** (9 tháng 9 năm 1930 – 20 tháng 5 năm 2009) là cựu chính khách Việt Nam Cộng hòa. Ông từng giữ chức vụ Chủ tịch Hạ nghị viện và Thủ tướng
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Đặng Văn Quang** (1929-2011) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên của trường Võ bị Quốc gia
**Thượng tướng** (tiếng anh: _colonel general_) là quân hàm tướng lĩnh cao cấp trong các lực lượng vũ trang của Nga, Thụy Điển, Hungary, Ai Cập, Trung Quốc, Đài Loan, Triều Tiên và Việt Nam.
**Hoàn Trạch** (chữ Hán: 完泽, 1246 – 1303), người thị tộc Thổ Biệt Yến (Tǔbiéyān), bộ tộc Khắc Liệt (Keraites), dân tộc Mông Cổ, thừa tướng nhà Nguyên. ## Thân thế Ông nội là Thổ
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Vũ Cát Tường** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1992) là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc và nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Tường được biết đến với khả năng kết
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Đức Xuyên** (阮德川) (1759 – 1824) là một võ quan đại thần dưới triều Nguyễn. Ông tham gia cuộc chiến của chúa Nguyễn Ánh chống lại triều Tây Sơn rồi làm quan dưới thời
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Haji Omar Lim Yew Hock** (15 tháng 10 năm 1914 – 30 tháng 11 năm 1984), tên khai sinh là **Lâm Hữu Phúc** (, Lim Yew Hock), là một chính trị gia người Singapore và
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Ninh Hữu Hưng** (甯有興) là người được nhiều làng nghề ở Việt Nam tôn xưng là vị tổ xưa nhất của nghề mộc Việt Nam, do đó được coi như vị tổ nghề xây dựng