✨Cuộc nổi dậy Đoàn Hữu Trưng

Cuộc nổi dậy Đoàn Hữu Trưng

Cuộc nổi dậy Đoàn Hữu Trưng xảy ra vào ngày 16 tháng 9 năm 1866 do Đoàn Hữu Trưng khởi xướng, có thể gọi là cuộc đảo chính lần thứ ba dưới triều vua Tự Đức. Những người lãnh đạo cuộc nổi dậy tin rằng việc đưa Đinh Đạo (tức Ưng Đạo, con trai trưởng của Hồng Bảo) lên thay Tự Đức sẽ cải thiện được tình hình rối ren trong nước và công cuộc kháng Pháp sẽ hiệu quả hơn. Do lực lượng nổi dậy dùng chày vôi (dụng cụ lao động) làm vũ khí, nên sử nhà Nguyễn và người dân quen gọi sự kiện này là Loạn chày vôi hoặc Giặc chày vôi.

Nguyên nhân

Tự Đức lên ngôi trong lúc chế độ phong kiến ngày càng mục nát, kiệt quệ và cuộc sống của người dân vốn chịu nhiều tai ách đã hết sức cùng cực. Thiên tai, dịch bệnh xảy ra nhiều năm liền, loạn lạc nhiều nơi, thực dân Pháp đang lấn chiếm nước Việt. Nội bộ hoàng tộc dưới triều Tự Đức cũng đang tan vỡ, phân hóa trầm trọng với hai sự kiện lớn là vụ Hồng Bảo (1854) và vụ Hồng Tập (1864). Sau khi nhà Nguyễn phải ký hòa ước năm 1862 nhường ba tỉnh miền Đông cho Pháp, một số người chủ chiến không bằng lòng và không còn tin phục vua Tự Đức nữa. Hồng Tập, con hoàng thân Miên Áo (em chú bác của Hồng Nhậm, tức vua Tự Đức) một số quan lại, quý tộc theo đường lối kháng Pháp (phe chủ chiến), mưu sự giết Phan Thanh Giản và Trần Tiễn Thành, bởi theo quan điểm của những người mưu sự, hai ông này chính là đại diện của phe chủ hòa. Việc không thành, Hồng Tập bị chém bêu đầu, những người trong hoàng tộc tham gia bị Tự Đức kết án trảm giam hậu và bắt đổi sang họ mẹ.

Trước tình cảnh đó, Đoàn Hữu Trưng đứng về phía những người chủ chiến và những người dân bị bóc lột, bị áp bức. Theo ông, cần phải thay thế Tự Đức bằng một ông vua yêu nước tiến bộ khác, mới có thể chỉnh đốn và bảo vệ được đất nước trước họa ngoại xâm.

Chuẩn bị cho cuộc nổi dậy

Khởi đầu, Đoàn Hữu Trưng xin ra khỏi Ký Thưởng viên của cha vợ là Tùng Thiện Vương, đồng thời trả vợ là Thể Cúc với cớ "bất kính với cha mẹ chồng". Tuy nhiên, rất có thể đây chỉ là cái cớ của Hữu Trưng, phòng khi cuộc nổi dậy thất bại, vợ và gia đình bên vợ ít bị liên lụy. :...Trước tôn vua Thái thượng hoàng, :Sau tôn ngũ đại đồng đường lên ngôi...

Để rồi: Theo sử gia Phạm Văn Sơn: "năm Tự Đức thứ 17 (1864) nhân vì phát giác ra vụ án của tên nghịch Võ Tập nên lại phải giam vào ngục tối ở phủ Thừa Thiên. Đinh Đạo giam riêng một nơi". Như vậy, việc gặp mặt này nếu có, chắc chắn phải xảy ra trước khi Đinh Đạo và ba em bị giam cầm trong ngục tối.

:*Đoàn Hữu Ái: năm 1865, cạo đầu giả làm nhà sư, để lôi kéo các sư sãi và một số tín đồ Phật giáo, vốn rất được xem trọng ở Huế, vào tổ chức. Đặc biệt, Hữu Ái đã vận động được sư Nguyễn Văn Quý, trụ trì chùa Long Quang có chùa riêng là Pháp Vân (chùa Khoai), nhận giúp mấy việc: làm "quân sư" cho hội Đông Sơn, cho hội mượn chùa làm cơ sở bí mật dùng để hội họp, chế tạo khí giới, may cờ và sẽ là bản doanh khi cuộc khởi nghĩa nổ ra. Lăng Tự Đức, tức Vạn Niên cơ.Đây là một thành công lớn của hội, vì thuở đó, nơi chùa Pháp Vân tọa lạc là một vùng đồi núi hiểm trở, đi lại rất khó khăn, ít người lui tới. Chùa Pháp Vân cách kinh thành 5 km, chỉ cách Vạn Niên cơ (lăng Tự Đức) khoảng 1 km, nơi mà ngày cũng như đêm luôn có khoảng ba ngàn quân lính, phu thợ đang chịu khổ sở vì việc xây lăng. Bấy giờ, trong dân gian có câu:

Vạn Niên là Vạn Niên nào?

Thành xây xương lính, hào đào máu dân.

Và câu:

Một thằng Biện Chất nên ghê,

Xem quân như cỏ chẳng hề xót thương.

Hai câu thơ này có ý khích động lòng căm phẫn của nhân dân. Tuy nhiên, theo sử gia Phạm Văn Sơn thì chưa hẵn 2 câu thơ này là của nhân dân mà có thể là do phe đảo chính tung ra.

Chính vì thế, Chùa Pháp Vân trở thành đối tượng cần tuyên truyền để trở thành lực lượng nòng cốt cho cuộc nổi dậy.

:*Đoàn Hữu Trưng: lôi kéo được các quan lại cao cấp nhận làm nội ứng, chuẩn bị được hàng trăm chiếc thuyền chờ sẵn khi khởi sự ở bến đò Trường Súng... Nhờ công tác tuyên truyền, vận động, nên ngoài nhà sư Nguyễn Văn Quý, hội có thêm một số người tham gia như: Nguyễn Văn Viên (nhà sư), Nguyễn Văn Lý (nhà sư), Tôn Thất Cúc (hữu quân), Tôn Thất Giác (vệ úy), Lê Chí Trực (đội trưởng), Lê Văn Cơ (đội trưởng), Bùi Văn Liệu (suất đội), Lê Văn Tề (lính vũ lâm),...

Diễn biến

Sau khi mọi công tác chuẩn bị đã hoàn tất, bộ chỉ huy do Đoàn Hữu Trưng lãnh đạo quyết định chọn đêm 16 rạng ngày 17 tháng 9 năm 1866, là ngày hữu quân Tôn Thất Cúc trực ở kinh thành và suất đội Bùi Văn Liệu đã có mặt ở công trường Vạn Niên, làm thời điểm xuất kích.

Để có cớ tập trung đông người, Đoàn Hữu Trưng bàn với mẹ và vợ Đinh Đạo xin lập đàn chay cho Hồng Bảo. Lúc này Hồng Bảo chết đã lâu và các con ông đều đã bị giam cầm, nên nhà vua chấp thuận.

Đến Vạn Niên cơ

Buổi lễ cúng kéo dài đến ngày thứ ba, khoảng 3 giờ sáng, ngày 16 tháng 9 năm 1866, từ lễ đàn Pháp Vân, Đoàn Hữu Trưng dẫn đầu đoàn quân khởi nghĩa kéo sang công sở Vạn Niên. Ông tự xưng tham tri bộ Công, ngồi trên chiếc võng điều có lọng che và lính hầu quạt theo lệnh vua để khám xét công trường. Bắt hai tên đốc công cay nghiệt là Nguyễn Văn Chất và Nguyễn Văn Xa, điều về kinh trị tội. Biện lý Chất ngẫu nhiên đêm hôm ấy lén về thành nên thoát nạn. Còn các binh phu hễ ai đang cầm chày giã vôi trong tay thì được đổi phiên về nghỉ. Binh phu nghe nói cả mừng đổ xô vào bắt thống chế Xa trói lại rồi vác chày vôi theo.

Đội trưởng Lê Văn Cơ và Nguyễn Tăng Hựu do nhận lời làm nội ứng từ trước nên cũng dẫn quân gia nhập. Với lực lượng hơn ba ngàn người, nghĩa quân được chia đều làm 3 đạo: :Tiền đạo: Đoàn Tư Trực và Nguyễn Văn Vũ chỉ huy. :Trung đạo: Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Hữu Ái và Phạm Lương chi huy. :*Hậu đạo: Trương Trọng Hòa và nhà sư Nguyễn Văn Quí chỉ huy.

Tất cả đoàn quân trên giương cao lá cờ "Ngũ đại hoàng tôn", từ công trường Vạn Niên nhanh chóng vượt sông Hương.

Vào Đại Nội

Kinh thành Huế. Vào cuối canh năm, sau khi nghe mấy phát súng hiệu ở Kỳ Đài nổ, báo hiệu các cửa thành được mở, lập tức tiền và trung đạo tiến đến cửa Hữu (Tây Nam), vào Ngọ Môn (hoàng thành Huế) rồi rẽ qua hai bên đến các kho Kim Ngô và Cẩm y để đoạt vũ khí. Khi ấy, hữu quân Tôn Thất Cúc cũng vừa mở Đại Cung Môn để đón nghĩa quân vào. Nghe huyên náo, phó vệ úy Hùng chạy ra ngó khiến Tôn Thất Cúc phải tránh mặt. Chỉ huy sứ Phạm Viết Trang và vệ úy Nguyễn Thịnh định đóng cửa lại thì bị chém bị thương. Quân nổi dậy vừa tiến vào vừa đánh lui được quân triều đình.

Chiếm được Điện Cần Chánh, Đoàn Hữu Trưng chưa biết đâu là cửa Tấu Môn thì chưởng vệ long võ quân Hồ Oai xuất hiện. Thấy quân nổi dậy đông quá, Hồ Oai hoảng sợ chạy lui về cửa Điện Càn Thành, nơi vua đang ngủ. Thủ lĩnh Trưng nhanh chóng đuổi theo rồi lia gươm qua khe cửa, chém mất tai phải của Hồ Oai, nhưng viên tướng này vẫn ghì chặt cửa nên Đoàn Hữu Trưng không vào được nơi vua ngủ. Bắt không được vua, Đoàn Hữu Trưng cho tập trung quân tại sân Điện Thái Hòa, truyền lệnh thu quân mà không cho quân truy đuổi và chiếm lĩnh những nơi trọng yếu. Sau đó, Hữu Trung sai Đoàn Tư Trực đến khám đường rước Đinh Đạo về tấn phong. Chính việc làm này của Hữu Trung đã bỏ lỡ thời cơ cho quân nổi dậy, tạo điều kiện cho Hồ Oai và các tướng lĩnh khác kịp thời tập họp binh lính, thị vệ để phản công.

Khi tiền và trung đạo của quân nổi dậy đều đã tan tác, hậu quân chuẩn bị vượt sông Hương. Nhà sư Nguyễn Văn Quí biết cơ sự đã vỡ, lẻn trốn về chùa Pháp Vân trước, còn Trương Trọng Hòa, do không biết gì nên vẫn cho quân xông vào trại Thần Cơ bên ngoài hoàng thành để thu khí giới, nghi trượng. Chỉ huy trại là hiệp quản Võ Giác sau khi giao nộp mọi thứ, liền dẫn quân lính xin theo. Nhưng khi đến cửa Chương Đức, hậu quân bị quân triều do Nguyễn Hùng, Lê Binh, Lê Sĩ chỉ huy chặn lại. Hai bên đánh nhau quyết liệt một lát thì hàng ngũ quân nổi dậy rối loạn, Trương Trọng Hòa cũng bị bắt trói...

Ngay sau đó, một đội quân ở Đại Nội được lệnh đi ngay lên chùa Pháp Vân bắt giam nhà sư Nguyễn Văn Quí...

Kết cục

Cuộc nổi dậy thất bại, ba anh em Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Hữu Trực, Đoàn Hữu Ái bị xử lăng trì. Khi ấy, Đoàn Hữu Trưng chỉ mới 22 tuổi. Đoàn Thi bị án tử hình, Đoàn Khóa mất tích, Đoàn Hào chết, Đoàn Thị Châu bị kết án tù đày 20 năm sau mới về... Cả họ Đoàn bị đổi sang họ Đoạn, con cháu phải lưu tán, không được thi cử... Nhưng sử gia Đỗ Bang, gia đình Đoàn Hữu Trưng bị án tru di tam tộc.

Tự Đức cho tịch thu gia sản của Đoàn Hữu Trưng, chỉ để lại một phần nhỏ cho bà mẹ vì bà đã lớn tuổi, lại bị mù. Thể Cúc - vợ Đoàn Hữu Trưng - nhờ trước ngày khởi sự đã bị "đuổi" về nhà bố mẹ ruột vì tội "bất kính với mẹ chồng" nên được miễn nghị, nhưng buộc cải sang họ mẹ là họ Tống và phải đi tu. Đối với Tùng Thiện Vương - là chú vua và là cha vợ Đoàn Hữu Trưng - bị tình nghi có liên quan, nhưng vì không có chứng cớ nên "sau ba ngày đêm cùng Thể Cúc phủ phục ở cửa Đông Ba để chịu tội", ông chỉ bị phạt truất bổng 8 năm, đóng cửa Ký Thưởng viên và không được tiếp xúc với bất kỳ ai ở bên ngoài.

Đoàn Hữu Trưng và Thể Cúc có một đứa con trai tên là Ngáo, vì quá nhỏ nên chưa xử, đưa cho người bà con đang ở rể trong phủ Tuy Lý Vương nuôi. Khoảng 13 tuổi, Ngáo bỗng dưng "mất tích".

Cả gia đình Hồng Bảo gồm 8 người là Đinh Đạo (Ưng Đạo), Đinh Tự, Đinh Chuyên, Đinh Tương (đều là con Hồng Bảo), Thị Thụy (vợ Hồng Bảo, mẹ Đinh Đạo) và hai đứa con Đinh Đạo (một trai, một gái) đều bị xử giảo (treo cổ).

Vệ úy Tôn Thất Giác bị chém đầu. Hữu quân Tôn Thất Cúc phải uống thuốc độc tự tử. Tự Đức sai đem xác Tôn Thất Cúc ra lăng trì, bêu đầu và con cái đều phải đổi sang họ mẹ.

Nhà sư Nguyễn Văn Quí bị chém bêu đầu, thiêu xác. Chùa Pháp Vân bị triệt hạ.

Quan kinh doãn Nguyễn Văn Tường và phủ thừa Vũ Khắc Bôn đều bị cách chức, nhưng cho lập công để chuộc tội, đề đốc Nguyễn Hữu vì mới nhậm chức nên bị giáng bốn cấp và đổi đi nơi khác...

Để đối phó hậu quả cuộc nổi dậy, Tự Đức phải triệu ngay Nguyễn Tri Phương về lo việc phòng thủ kinh thành. Đến Huế, ông thấy những người tham gia cuộc khởi nghĩa đã lãnh án hết mà người bị tố cáo làm phản vẫn còn mãi, bèn xin vua cho kết thúc để yên ổn lòng người...

Và cũng do biến động này, vua Tự Đức phải đổi tên Vạn Niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài "biểu trần tình" dài để biện bạch, trong đó có câu: "Dân chúng nhất thời dại dột mà nghe theo chứ không thật tình thù oán triều đình".

Nhận xét

Theo sử gia Phạm Văn Sơn: :...Binh sĩ và dân chúng đi theo họ Đoàn bấy giờ chỉ có tính cách tạm bợ, nên sau tiếng quát mắng của Hồ Oai, họ rời ngay hàng ngũ. Ví thử bọn Đoàn Trưng có thành công cũng chỉ được nhất thời mà thôi. Nắm được kinh thành Huế đâu phải là đã nắm được toàn quốc. Lực lượng của vua Tự Đức còn nhiều võ tướng đại thần trung thành...

:Bảo rằng Trưng dựa vào uy tín của Hồng Bảo, của Tùng Thiện Vương và lòng căm phẫn của dân chúng tại Huế đối với việc xây dựng Khiêm Lăng, là đủ sức mạnh để lôi cuốn nhân tâm cả ba Kỳ thì thật quá nông cạn...

Đỗ Bang đánh giá: :Mặc dù thất bại nhưng cuộc khởi nghĩa cũng đã thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, yêu nhân dân của Đoàn Hữu Trưng và của một số người tham gia...

Chú giải

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cuộc nổi dậy Đoàn Hữu Trưng** xảy ra vào ngày 16 tháng 9 năm 1866 do Đoàn Hữu Trưng khởi xướng, có thể gọi là _cuộc đảo chính lần thứ ba_ dưới triều vua Tự
**Đoàn Hữu Trưng** (段有徵; 1844 - 1866) hay **Đoàn Trưng** (段徵), tên trong gia phả là **Đoàn Thái**, tự **Tử Hòa**, hiệu **Trước Lâm**; là thủ lĩnh cuộc nổi dậy ngày 16 tháng 9 năm
**Cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân** là một cuộc đấu tranh chống nhà Nguyễn của các dân tộc thiểu số ở Việt Bắc (Việt Nam) do Nông Văn Vân làm thủ lĩnh, xảy ra
**Cuộc nổi dậy Ba Nhàn, Tiền Bột** (bắt đầu: 1833, kết thúc: 1843), là cuộc đấu tranh chống triều Nguyễn, do **Nguyễn Văn Nhàn** và **Lê Văn Bột** làm đồng thủ lĩnh, khởi phát từ
**Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi**, hay còn được gọi là: **cuộc binh biến của Lê Văn Khôi**, **khởi nghĩa của Lê Văn Khôi**, **sự biến thành Phiên An**, là một cuộc nổi dậy
**Cuộc nổi dậy Lê Duy Lương** (khởi phát: 1832, kết thúc: 1837 hoặc 1838) là cuộc nổi dậy của đa số người Mường ở Hòa Bình và Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của con
Cuộc biểu tình toàn quốc vì **dân chủ 8888** (chuyển tự tiếng Miến Điện: _hrac le: lum:_) còn được biết đến với tên gọi **Khởi nghĩa Sức mạnh của Nhân dân** là một chuỗi các
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2023, lãnh đạo Tập đoàn Wagner Yevgeny Prigozhin cáo buộc Bộ Quốc phòng Nga đã tiến hành một cuộc tấn công vào lực lượng của ông ta và giết
**Chiến tranh nổi dậy cộng sản**, cũng gọi là **Tình trạng khẩn cấp Malaya lần thứ hai**, diễn ra tại Malaysia từ năm 1968 đến năm 1989, liên quan đến Đảng Cộng sản Malaya (MCP)
Trong lịch sử Việt Nam, ngoài những triều đại hợp pháp ổn định về nhiều mặt từ kinh tế, chính trị đến văn hóa xã hội và tồn lại lâu dài còn có những chính
phải|nhỏ|366x366px|Binh lính Ba Lan ở Vilnius (Wilno), 1920 **Cuộc nổi dậy của Żeligowski** ( also _żeligiada_, ) là một cuộc nổi dậy quân sự do tướng Lucjan Żeligowski cầm đầu vào tháng 10 năm 1920,
**Jacquou Người nông dân nổi dậy** (tiếng Pháp: _Jacquou le Croquant_) là bộ phim sử thi của điện ảnh Pháp sản xuất từ năm 2005, công chiếu năm 2007 (từ tháng Giêng), dài 150 phút,
**Nổi dậy tại Đông Đức 1953** bắt đầu với một cuộc đình công của công nhân xây cất Đông Berlin vào ngày 16 tháng 6 năm 1953. Nó biến thành một cuộc nổi dậy lan
**Nội chiến Áo** () còn được gọi là **Cuộc nổi dậy tháng Hai** (), là một thuật ngữ đôi khi được sử dụng để chỉ các cuộc giao tranh kéo dài vài ngày giữa
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Đảng Cộng sản Trung Quốc** (; Hán-Việt: Trung Quốc Cộng sản Đảng), một số văn kiện tiếng Việt còn gọi là **Đảng Cộng sản Tàu**, là đảng chính trị thành lập và điều hành Cộng
**Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2** (); diễn ra từ năm 1945 đến năm 1950, là cuộc chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm tranh giành quyền kiểm soát Trung
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**Nội chiến Campuchia** là cuộc chiến giữa lực lượng của Đảng Cộng sản Campuchia (được biết đến với tên gọi Khmer Đỏ) và đồng minh của họ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt
**Trại tập trung Auschwitz** ( ) là một mạng lưới các trại tập trung và trại hủy diệt do Đức Quốc Xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính
Vào ngày 6 tháng 1 năm 2021, một nhóm người ủng hộ cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nỗ lực lật ngược cuộc bầu cử tổng thống 2020 bằng cách tiến vào Washington,
**Liên đoàn Ả Rập** ( **'), tên chính thức là **Liên đoàn các Quốc gia Ả Rập** ( **'), là một tổ chức khu vực của các quốc gia Ả Rập nằm tại và xung
Nội chiến Hoa Kỳ diễn ra ở nhiều nơi trong hai vùng chiến lược chính, Mặt trận miền Đông và Mặt trận miền Tây. Ngoài ra còn có mặt trận vùng sông Mississippi, bờ biển
**Đoàn** (chữ Hán: 段) là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, ở Trung Quốc (chữ Hán: 段, Bính âm: Duàn), ở Triều Tiên và Miến Điện. Chữ Hán
**Nội chiến Trung Quốc** hay **Quốc Cộng nội chiến** (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền
**Đại thanh trừng** là một loạt các biện pháp trấn áp tại Liên Xô kéo dài từ mùa thu năm 1936 cho tới đầu năm 1938. Sự kiện này liên quan tới một cuộc thanh
**Cuộc vây hãm Dubrovnik** (, Опсада Дубровника) là một cuộc giao tranh quân sự giữa Quân đội Nhân dân Nam Tư (tiếng Serbia-Croatia: _Jugoslovenska Narodna Armija_, JNA) với lực lượng người Croat bảo vệ thành
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Nổi loạn** là một sự từ chối vâng lời hoặc phản ứng với trật tự. Nó đề cập đến sự kháng cự mở chống lại mệnh lệnh của một cơ quan có thẩm quyền. Phiến
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Chiến tranh Trung–Ấn** (戰爭中印; Hindi: भारत-चीन युद्ध _Bhārat-Chīn Yuddh_), còn được gọi là **Xung đột biên giới Trung–Ấn**, là một cuộc chiến tranh giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Ấn Độ. Nguyên nhân
Bài này là một tổng quan về **lịch sử Trung Đông**. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận
Cuộc nội chiến Nepal là cuộc xung đột vũ trang giữa Đảng Cộng sản Nepal (Maoist) (CPN-M) và chính phủ Nepal, chiến đấu từ năm 1996 đến năm 2006. Cuộc nổi dậy đã được đưa
nhỏ|Những hình ảnh liên quan đến cuộc trấn áp Pháp Luân Công **Cuộc đàn áp Pháp Luân Công** đề cập đến chiến dịch được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với các
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Cuộc xung đột Israel–Palestine** (; ) là cuộc xung đột đang tiếp diễn giữa Israel và Palestine, đã bắt đầu từ giữa thế kỷ 20. Rất nhiều nỗ lực đã được thực hiện để giải
**Nội chiến Syria** là một cuộc nội chiến đang diễn ra ở Syria bắt nguồn từ Cách mạng Syria vào tháng 3 năm 2011 khi hàng loạt các cuộc biểu tình phản đối Bashar al-Assad
**Đoàn Văn Sách** (? – 1842) là một võ quan đại thần triều Nguyễn. Ông là người có công rất lớn trong việc cản phá quân Xiêm tiến vào trấn Tây Thành và Nam Kỳ
**Hai Bà Trưng** (? – 5 tháng 3 năm 43) là tên chỉ chung hai chị em Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân
**Khởi nghĩa Mỹ Lương** (sử cũ gọi là **Giặc Châu Chấu**) là một cuộc nổi dậy từ năm 1854 đến năm 1856 để chống lại triều đình vua Tự Đức, do Lê Duy Cự làm
**Trương Hiến Trung** (chữ Hán: 张献忠, 01 tháng 1, 1600 – 02 tháng 1, 1647), tên tự là **Bỉnh Trung**, hiệu là **Kính Hiên**, người bảo Giản, huyện Liễu Thụ, vệ Duyên An, là lãnh
thumb|[[Lăng Hoàng Đế|Miếu Hiên Viên thờ Hoàng Đế ở Hoàng Lăng, Thiểm Tây]] thumb|Miếu [[Thành hoàng ở Mã Công, Đài Loan]] thumb|Điện thờ trong Ngũ Công Tự ở [[Hải Khẩu, Hải Nam]] **Tín ngưỡng dân
**Phong trào Katip Sumat** là một phong trào mang tính thánh chiến Hồi giáo dẫn đến cuộc nổi dậy của người Chăm chống lại nhà Nguyễn vào năm 1833 cho đến khi bị đàn áp
**Nội các Von Schleicher**, đứng đầu bởi Thủ tướng Kurt von Schleicher, là chính phủ thứ 20 của Cộng hòa Weimar. Schleicher lên nắm quyền vào ngày 3 tháng 12 năm 1932 sau khi gây