✨Hai Bà Trưng

Hai Bà Trưng

Hai Bà Trưng (? – 5 tháng 3 năm 43) là tên chỉ chung hai chị em Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân tộc của người Việt. Trong sử sách, hai bà được biết đến như là những thủ lĩnh khởi binh chống lại chính quyền đô hộ của Đông Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và Trưng Trắc tự phong là Nữ vương. Thời kì của hai Bà xen giữa thời kỳ Bắc thuộc lần 1 và Bắc thuộc lần 2 trong lịch sử Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử, với tên gọi Trưng Nữ vương (徵女王).

Xuất thân và tên gọi

Hán Thư

Nguồn sử liệu đầu tiên đề cập đến chị em Hai Bà Trưng là cuốn Hậu Hán Thư viết vào thế kỷ thứ 5 (Công nguyên) bởi học giả Phạm Diệp, cuốn sách nói về lịch sử nhà Hán từ năm 6 đến năm 189 Công nguyên. Các tài liệu cổ của Trung Quốc đề cập đến hai chị em Bà Trưng khá ngắn gọn, được tìm thấy trong hai chương của Hậu Hán Thư mô tả về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà thời kỳ nhà Tây Hán. nhỏ|197x197px|Năm 43 Hai Ba Trung đánh đuổi giặc Hán

Ở quyển 86 của Hậu Hán Thư, phần "Tây Nam di liệt truyện" có viết: :Năm Kiến Vũ thứ 16, thời Hán Quang Vũ Đế (40), hai người phụ nữ Giao Chỉ là chị em Trưng Trắc () và Trưng Nhị () tạo phản, tấn công quận phủ. Trưng Trắc là con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh. Bà ta được gả làm vợ cho người xứ Chu Diên tên Thi Sách (), là kẻ hùng dũng. Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định () dùng luật pháp để kiềm chế bà ta. Trưng Trắc phẫn nộ, bèn tạo phản. Những tộc trưởng xứ Man ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố hưởng ứng, bà ta đã chiếm được 65 thành trì và tự xưng là Nữ vương. Thứ sử và Thái thú quận Giao Chỉ chỉ còn biết cố thủ. Hán Quang Vũ Đế vì vậy đã ra lệnh cho quận Trường Sa, Hợp Phố và Giao Chỉ chuẩn bị xe, thuyền bè, sửa cầu, mở thông lối đi qua khe núi, trữ lương thảo. :Năm thứ 18 (42), Quang Vũ Đế sai Phục Ba tướng quân Mã Viện (), Trung lang tướng Lưu Long () và Lâu thuyền tướng quân Đoàn Chí () dẫn quân Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô hơn vạn người đi thảo phạt. Vào mùa hè tháng 4 năm 43, Mã Viện phá Giao Chỉ, trảm Trưng Trắc và Trưng Nhị, những kẻ đồng đảng đầu hàng hoặc giải tán. Tiến đánh bọn Đô Dương () ở Cửu Chân, phá tan và bắt hàng phục. Bắt hơn 300 kẻ cầm đầu dời đi Linh Lăng (). Vùng Lĩnh Biểu () coi như bình định.

Việt sử

Bộ sử cổ nhất của Việt Nam đề cập đến Hai Bà Trưng là Đại Việt sử lược. Theo sách này, thời Việt Nam còn là Giao Chỉ, Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở huyện Mê Linh, lấy chồng là Thi Sách ở huyện Chu Diên.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hai Bà Trưng vốn họ Lạc, là dòng dõi Lạc tướng ở Mê Linh. Chồng bà Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hôn với nhau. Khi lên ngôi, Hai Bà mới đổi sang họ Trưng.

Nguồn khác

Truyền thuyết xác nhận quê nội Hai Bà ở làng Hạ Lôi và quê ngoại Hai Bà ở làng Nam Nguyễn (nay thuộc huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Mẹ Hai Bà là Man Thiện, còn được ghi với tên gọi Trần Thị Đoan.

Tuy nhiên, theo các sử gia hiện đại, thời đầu Công nguyên, người Việt chưa có họ. Tên Trần Thị Đoan của mẹ Hai Bà chỉ là tên thần phả đặt sau này, khoảng thế kỷ 17, 18. Cả cái tên Man Thiện có nghĩa là người Man tốt có thể do người Hán gọi. Khi chữ Hán chưa được truyền bá hoặc chưa có điều kiện thấm sâu vào nhận thức xã hội thì xu hướng đặt tên người rất giản dị và mộc mạc, thể hiện sự gắn bó với cuộc sống đời thường và xu hướng này còn tiếp tục trong các thế hệ sau. Tuy nhiên, những luận điểm trên hoàn toàn thiếu nguồn gốc và sự chứng minh một cách khoa học, mà thiên về tự biện giải của tác giả.

Tên của ông Thi Sách, theo Thủy kinh chú của Trung Quốc xác định: chồng bà Trưng Trắc tên là Thi.

Khởi nghĩa

nhỏ|Tranh Đông Hồ diễn tả cảnh Hai Bà Trưng khởi nghĩa Cuộc nổi dậy của Trưng Trắc, theo Hán thư cùng Việt sử ghi lại, chỉ gói gọn trong lý do vì Thái thú khi ấy là Tô Định dùng biện pháp khắc chế, nên Trưng Trắc cùng phẫn mà nổi dậy. Hán thư không đưa ra lý do Thi Sách bị giết, trong khi Việt sử thì chỉ có Đại Việt sử ký toàn thư ghi lý do này, Đại Việt sử lược trước đó thì không.

Theo một số học giả như Đào Duy Anh, Trần Quốc Vượng..., do chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột hà khắc của nhà Đông Hán đối với người Việt tại Giao Chỉ đương thời, các Lạc tướng người Việt liên kết với nhau để chống lại nhà Hán. Trưng Trắc kết hôn với con trai Lạc tướng ở Chu Diên là Thi Sách, hai nhà cùng có chí hướng chống Hán. Khoảng năm 39-40, nhằm trấn áp người Việt chống lại, Thái thú Tô Định giết Thi Sách.

Trưng Trắc và các Lạc tướng càng căm thù, cùng Trưng Nhị mang quân bản bộ về giữ Hát Giang nay là xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị chính thức phát động khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ. Quân Hai Bà đánh hãm trị sở Luy Lâu. Tô Định phải chạy về Nam Hải (Trung Quốc).

Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai Bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương, hay còn gọi là Trưng Vương.

Cai trị

Hai Bà Trưng cai trị lãnh thổ vùng Lĩnh Nam của người Việt, tương đương với Bộ Giao Chỉ của nhà Hán trong ba năm. Thời gian cai trị ngắn ngủi và phải toan tính chuẩn bị chống lại cuộc chiến của nhà Hán khiến Hai Bà Trưng không có hoạt động gì đáng kể trong việc xây dựng lãnh thổ mà mình cai quản.

Hành chính

nhỏ|245x245px|phải|Bản đồ Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng Do thời gian cai trị của Hai Bà Trưng không dài và không còn tài liệu để khôi phục lại hệ thống tổ chức bộ máy thời Hai Bà Trưng. Tuy nhiên, các sử gia căn cứ trên các sử liệu liên quan đến sự cai trị của nhà Hán trước và sau thời Hai Bà Trưng cho rằng, về cơ bản Hai Bà Trưng vẫn duy trì hệ thống quản lý của nhà Hán trước đó, do người Việt nắm giữ. Các quận, huyện do nhà Hán lập ra trên đất Nam Việt cũ.

Ghi chép về Mê Linh trong hai tài liệu cổ nhất của Việt Nam, đều thuộc thời Hậu Lê và cách nhau 44 năm đã mâu thuẫn về kinh đô của Hai Bà:

Dư địa chí của Nguyễn Trãi (năm 1434) chép: Mê Linh là Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc bây giờ... huyện Phúc Lộc là Mê Linh ngày xưa

Đại Việt sử ký toàn thư (năm 1479) chép: Thời Tây Hán trị sở của thái thú (Giao Châu) tại Long Uyên tức Long Biên. Thời Đông Hán tại Mê Linh tức Yên Lãng.

Do đó, ba thế kỷ sau Lê Quý Đôn viết Vân đài loại ngữ (năm 1773) rất lộn xộn, chép Yên Lãng thuộc về ba quận khác nhau cùng tồn tại trong một thời kỳ: Mê Linh nay là Yên Lãng... Phong Khê là đất Yên Lãng... Chu Diên nay là Yên Lãng

Cương mục nhà Nguyễn chép: Mi Linh là Phong Châu... ở địa phận hai huyện Phúc Lộc và Đường Lâm

Do đó đã xuất hiện các tranh cãi về Mê Linh, một số cho rằng Mê Linh ở phía nam sông Hồng và số khác cho là ở phía bắc, ngay gần thành Cổ Loa của Thục Phán. Ở huyện Yên Lãng này cũng có làng Hạ Lôi nhưng không có tên Nôm. Năm 1977 huyện này được đổi tên thành Mê Linh.

Từ năm 1973-1990, nhà nghiên cứu Đinh Văn Nhật __ sử dụng phương pháp địa lý học lịch sử để nghiên cứu về các địa danh thời Hai Bà Trưng. Ông sau đó kết luận huyện Mê Linh nằm ở phía nam sông Hồng, cụ thể là phía tây sông Đáy của Hà Nội. Ở đây có các địa danh là Cấm Khê, Hạ Lôi, Đền Hát Môn và Miếu Mèn thờ mẹ Hai Bà là Bà Man Thiện. Các bài viết đều đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. ;Quận Giao Chỉ Quận Giao Chỉ được xác định vị trí là đất Bắc Bộ Việt Nam và một phần phía tây nam tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) hiện nay (từ sông Uất hay Tây Giang về phía nam), trừ đi những phần đất sau:

Góc miền núi tây bắc ngoài phạm vi thống trị của nhà Hán.

Góc tây nam Ninh Bình thuộc về huyện Vô Công, quận Cửu Chân.

Vùng duyên hải từ thành phố Hải Phòng (huyện An Dương, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo) đến huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình khi đó chưa được bồi đắp thành đất liền (vẫn là biển).

Quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện (縣) theo Đào Duy Anh như sau:

Luy Lâu (羸婁 hoặc 羸𨻻 hoặc 𨏩𨻻): hoặc Liên Lâu, tương đương phần lớn tỉnh Bắc Ninh.

Long Biên (龍編): tương đương gồm trung tâm Hà Nội và các huyện Hoài Đức, Thường Tín (Hà Nội), Khoái Châu (Hưng Yên), thị xã Thuận Thành, thị xã Quế Võ và huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh trở lên phía bắc, bao gồm cả các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng và một phần phía tây nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. ''(quan điểm của Đinh Văn Nhật .

Quận trị Cửu Chân được xác định ở huyện Tư Phố. Cửu Chân gồm có bảy huyện như sau:

Vô Thiết (無切): tương đương với Nho Quan, Yên Khánh tỉnh Ninh Bình hiện nay.

Vô Biên (無編): tương đương huyện Vĩnh Lộc, Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa.

Tư Phố (胥浦): địa bàn tương đương huyện Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa và bắc Diễn Châu tỉnh Nghệ An.

Cư Phong (居風): tương đương phía tây nam tỉnh Thanh Hóa.

Dư Phát (餘發): tương đương các huyện Nga Sơn và Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa.

Đô Lung (都龐): tương đương vùng thượng lưu sông Mã.

Hàm Hoan (咸驩 hoặc 咸懽 hoặc 鹹驩): tương đương Nghệ An và Hà Tĩnh, là huyện lớn nhất ở cực nam Cửu Chân.

;Quận Nhật Nam Vị trí Nhật Nam được xác định là từ Quảng Bình tới địa giới Bình Định, Phú Yên hiện nay.

Nhật Nam gồm có năm huyện như sau:

Tây Quyển (西卷): vùng sông Gianh, bắc Quảng Bình.

Chu Ngô (硃吾): khoảng sông Thạch Hãn, tỉnh Quảng Trị.

Lô Dung (盧容): miền Thừa Thiên, lưu vực sông Hương và sông Bồ.

Ty Ảnh (比景): nam Quảng Bình, khoảng từ sông Nhật Lệ đến sông Bến Hải.

Tượng Lâm (像林): từ đèo Hải Vân đến mũi Đại Lãnh (tỉnh Phú Yên).

;Quận Hợp Phố Quận Hợp Phố gồm năm huyện: Hợp Phố (合浦), Từ Văn (徐聞), Cao Lương (高涼), Lâm Nguyên (臨元), Chu Nhai (朱崖).

Hợp Phố được xác định vị trí là vùng duyên hải vịnh Bắc Bộ tỉnh Quảng Tây và địa cấp thị Trạm Giang tỉnh Quảng Đông.

;Quận Thương Ngô Quận Thương Ngô gồm có 10 huyện: Quảng Tín (廣信), Tạ Mộc (謝沐), Cao Yếu (高要), Phong Dương (封陽), Lâm Hạ (臨賀), Đoan Khê (端谿), Phùng Thừa (馮乘), Phú Xuyên (富川), Lệ Phổ (荔浦), Mãnh Lăng (猛陵).

Thương Ngô thời Hán được xác định vị trí tương đương với khu vực dãy núi Đô Bàng tỉnh Quảng Tây, phía đông núi Đại Dao, địa cấp thị Triệu Khánh tỉnh Quảng Đông, phía tây huyện cấp thị La Định, huyện Giang Vĩnh tỉnh Hồ Nam, phía nam huyện Giang Hoa, huyện Đằng tỉnh Quảng Tây, phía bắc thành phố cấp huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông.

;Quận Uất Lâm Quận Uất Lâm thời Hán gồm có 12 huyện: Bố Sơn (布山), An Quảng (安廣), Hà Lâm (河林), Quảng Đô (廣都), Trung Lưu (中留), Quế Lâm (桂林), Đàm Trung (譚中), Lâm Trần (臨塵), Định Chu (定周), Lĩnh Phương (領方), Tăng Thực (增食), Ung Kê (雍雞).

Uất Lâm được xác định vị trí là từ các địa cấp thị Nam Ninh, Bách Sắc đến đại bộ phận Liễu Châu, phía bắc Ngọc Lâm, phía đông và phía nam Hà Trì đều thuộc Quảng Tây.

;Quận Nam Hải Quận Nam Hải gồm có sáu huyện: Phiên Ngung (番禺), Trung Túc (中宿), Bác La (博羅), Long Xuyên (龍川), Tứ Hội (四會), Yết Dương (揭陽).

Nam Hải được xác định vị trí bao trùm tỉnh Quảng Đông và phần đất phía đông nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc hiện nay.

Như vậy tổng số huyện thành đương thời chỉ có 54 huyện. Ngô Sĩ Liên dẫn thêm hai huyện mới đặt trong quận Giao Chỉ là Vọng Hải và Phong Khê do Mã Viện mới tách đặt sau thời Hai Bà Trưng, được chép gộp vào danh sách các huyện thuộc Giao Chỉ lúc đó, tổng cộng là 56 huyện thành.

Những mặt khác

Theo Viện Sử học, đội ngũ các cánh quân mới tập hợp của các Lạc hầu, Lạc tướng, thủ lĩnh địa phương chưa có điều kiện tổ chức theo kiểu chính quy thành các đơn vị, quân thứ kiểu hệ thống, cấp bậc quy củ như các triều đại sau này. Thành phần họ gồm bình dân trong kẻ, chạ... gia nô, nô tỳ thuộc quyền quản lý của các thủ lĩnh vùng. Các sử gia nhìn nhận lực lượng mới họp này chưa được tổ chức chặt chẽ nên có những yếu điểm bộc lộ trong cuộc chiến chống Mã Viện sau này.

Sử sách không ghi lại bất cứ hoạt động chính trị nào khác thời kì này. Ngoại trừ Viện Sử học ghi lại một sự kiện duy nhất liên quan tới kinh tế thời Hai Bà Trưng là Trưng vương cho xá thuế trong hai năm cho dân chúng. Luật pháp chưa có văn bản chính thức. Các sử gia xác định luật thời Hai Bà Trưng là một thứ “tập quán pháp”, “luật tục” của nhiều đời trước được khôi phục và sử dụng điều hành xã hội.

Sách Hậu Hán thư của Phạm Diệp dẫn lời tâu báo của Mã Viện lên Hán Quang Vũ Đế rằng luật Việt khác với luật nhà Hán đến hơn 10 điều.

Thất bại

Ngày 30 tháng 1 năm Tân Sửu (41), nhà Hán thấy Trưng Trắc xưng Vương dấy quân đánh lấy các thành ấp, nên hạ lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó tướng, chỉ huy đạo quân lớn khoảng 2 vạn người, chia làm 2 cánh thủy, bộ sang xâm lược.

Cánh quân bộ tiến vào vùng Đông Bắc Mã Viện tiến theo đường ven biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành) đánh nhau với Hai Bà. Quân Nam bấy giờ ô hợp, rất nhiều thủ lĩnh không phục hai vua là đàn bà, lớp tan rã, lớp tự ly khai hoặc đầu hàng quân Hán. Hai Bà thấy thế giặc mạnh lắm, không chống nổi, bèn lui quân về giữ Cấm Khê (sử chép là Kim Khê).

Năm Quý Mão (43), Hai Bà Trưng chống cự lại với quân nhà Hán ở Cấm Khê (nay thuộc huyện Thạch Thất, Hà Nội) thất thế, đều tử trận. Theo truyền thuyết Việt Nam, Hai Bà đã nhảy xuống sông Hát (tức sông Đáy, nay thuộc xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) tự vẫn để bảo toàn khí tiết. Còn theo Hậu Hán thư, sách sử của Trung Quốc, Hai Bà đã bị quân Mã Viện bắt được và chặt đầu đem về Lạc Dương.

Tướng Đô Dương tiếp tục cầm quân chống lại quân Hán đến cuối năm 43. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót lại huyện Cư Phong, cuối cùng lực lượng này cũng bị dẹp. Ngoài các cừ súy bị giết, hơn 300 cừ súy người Việt bị bắt và đày sang Linh Lăng (Hồ Nam). Mã Viện thu gom, phá hủy nhiều trống đồng và đúc rồi dựng cột đồng (tương truyền ở trên động Cổ Lâu châu Khâm) làm giới hạn biên giới của nhà Hán, và khắc lên đó dòng chữ thề: "Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt" (Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt).

Từ đây, nước Việt lại thuộc quyền kiểm soát của nhà Hán, bắt đầu thời Bắc thuộc lần 2. Thời kỳ Hai Bà Trưng chỉ kéo dài được hơn ba năm.

Sau khi Hai Bà Trưng thất bại, chế độ giao quyền cai quản cấp huyện ở Bộ Giao Chỉ cho các Lạc tướng không còn, quyền lực của các Lạc tướng, Lạc hầu bị thủ tiêu. Theo như cách gọi của sử gia Madrolle thì chế độ bảo hộ chấm dứt, bắt đầu chế độ cai trị trực tiếp. Nhà Hán đặt quan lại cai trị đến cấp huyện.

Đánh giá

Sử gia Lê Văn Hưu viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: :Trưng Vương là dòng dõi bậc thần minh, nhân lòng dân oán hận, nổi giận, khích lệ người cùng chung mối thù. Nghĩa binh đi đến đâu gần xa đều hưởng ứng, 65 thành ngoài miền Ngũ Lĩnh một buổi sớm đều thu phục được, người dân chịu khổ từ lâu, không khác gì đã ra khỏi vực thẳm được thấy mặt trời. Bà quả là bậc anh hùng khí khái hơn người. Tuy rằng quân mới tập hợp, bị tan rã khi đã thành công, cũng làm hả được lòng căm phẫn của thần dân một chút... Khi đất nước bị chìm đắm, thì hầu như lại được khôi phục do một nữ chúa ở Mê Linh. Lúc đó bậc con trai mày râu phải cúi đầu ngoan ngoãn tuân theo không dám làm gì, chẳng đáng thẹn lắm sao?

Vua Tự Đức viết trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục:

:Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm!

Hai Bà Trưng và hàng chục, hàng trăm nữ tướng tham gia phong trào kháng Hán, được người Việt Nam hiện đại xem là một biểu tượng đáng tuyên dương và tôn sùng. Theo quan điểm này, việc khởi nghĩa này đã góp phần tạo nên truyền thống anh hùng bất khuất cho giới nữ và cho cả dân tộc Việt Nam. Nguyên lý Mẹ và sắc thái bình quyền trai gái in đậm nét trong nền văn hóa dân tộc, dân gian Việt Nam đến nỗi nhiều học giả cho rằng đấy là điểm vượt trội không còn phải bàn cãi gì nữa của Việt Nam so với Trung Quốc và phương Tây.

Di sản

Các công trình gắn liền với tên tuổi của Hai Bà Trưng

nhỏ|Đền Đồng Nhân thờ Hai Bà Trưng tại thủ đô Hà Nội|249x249px phải|Voi diễu hành nhân ngày Lễ Hai Bà Trưng 7 tháng 3 năm 1957 tại [[Sài Gòn ]] Hiện nay, trên cả nước Việt Nam có 103 nơi thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh ở 9 tỉnh, thành phố như: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Ninh Bình trong đó riêng huyện Mê Linh có 25 di tích ở 13 xã.

  • Hai Bà Trưng được coi là anh hùng dân tộc của Việt Nam và được thờ cúng tại nhiều đền thờ, trong đó lớn nhất là Đền Hát Môn thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội, Đền Đồng Nhân ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và Đền Hạ Lôi tại thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội - quê hương của hai bà. Theo ghi nhận của sử gia Ngô Thì Sĩ, từ nhiều thế kỷ trước khi đền thờ Hai Bà được lập ra, vì Hai Bà chết do binh đao nên đền thờ kiêng màu đỏ là màu máu: hương án đều sơn màu đen, không có màu đỏ; người dân địa phương cũng không dám mặc áo đỏ, kể cả người đến viếng thăm nếu mặc áo đỏ phải cởi bỏ để bên ngoài theo lệ cấm. *Ngoài ra, tại tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) hiện nay vẫn còn miếu thờ Trưng Vương (miếu này đã được kiểm chứng bởi hai nhà nho đi sứ là Nguyễn Thực và Ngô Thì Nhậm) do những thủ lĩnh bị bắt về đất Hán sau khi khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại lập ra để tưởng nhớ về quê hương và cũng là thể hiện tinh thần bất khuất của người Việt thời Hai Bà Trưng.
  • Các danh xưng của Hai Bà như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Trưng Vương, Hai Bà Trưng còn được đặt cho nhiều trường học, đường phố, phường, xã, quận... ở Việt Nam.

Trong văn hóa đại chúng

  • Các câu chuyện về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, và các nữ tướng khác được một số sử gia trích dẫn để làm bằng chứng cho luận điểm rằng xã hội Việt Nam trước khi bị Hán hóa là một xã hội mẫu hệ (hay còn gọi là chế độ mẫu hệ), trong đó phụ nữ có thể giữ vai trò lãnh đạo mà không gặp trở ngại.
  • Nhiều tác phẩm, sách, kịch, nhạc... viết hoặc dựa vào Hai Bà làm nhân vật chính. Vở cải lương Tiếng trống Mê Linh về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà là một vở cải lương kinh điển tại Việt Nam.

Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã trở thành quen thuộc đối với người Việt:

:Bà Trưng quê ở Châu Phong :Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên :Chị em nặng một lời nguyền :Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân :Ngàn Tây nổi áng phong trần :Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên :Hồng quần nhẹ bước chinh yên :Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành :Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh :Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta :Ba thu gánh vác sơn hà :Một là báo phục hai là Bá Vương :Uy danh động tới Bắc Phương :Hán sai Mã Viện lên đường tấn công :Hồ Tây đua sức vẫy vùng :Nữ nhi địch với anh hùng được sao! :Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo :Hai Bà thất thế cùng liều với sông! :Trước là nghĩa, sau là trung :Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn. Bài hát Hồn tử sĩ có nguyên bản là Hát Giang Trường Hận, gợi nhớ đến công ơn và sự hy sinh của Hai Bà Trưng.Voi diễn hành nhân ngày Lễ Hai Bà Trưng năm 1961 tại Sài Gòn

Sự kiện

Hàng năm, vào ngày 6 tháng 2 âm lịch, ngày giỗ hay lễ hội tưởng nhớ Hai Bà được tổ chức là ngày lễ chính thức của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến 1975 có diễu hành. Ngày này cũng là Ngày Phụ nữ Việt Nam của miền Nam Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1976 trở đi, sau khi hai miền thống nhất thì ngày lễ Hai Bà Trưng không còn là ngày lễ ở Việt Nam nữa.

Về sau, về truyền thuyết Hai Bà Trưng đã được lan rộng khắp người dân Việt Nam nhiều thế hệ sau này, và hình tượng của 2 bà tiếp tục được đưa vào những trò chơi dân gian, truyện tranh và tác phẩm thơ văn.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hai Bà Trưng** (? – 5 tháng 3 năm 43) là tên chỉ chung hai chị em Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân
phải|Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43 sau Công nguyên). **Khởi nghĩa Hai Bà Trưng** là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng
**Đền Hai Bà Trưng**, còn gọi là **Đền Đồng Nhân**, là một ngôi đền thờ Hai Bà Trưng tọa lạc tại 12 Đồng Nhân, phường Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Hiện nay, đền
**Hai Bà Trưng** là một quận trung tâm của thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Quận Hai Bà Trưng nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, có vị trí địa lý:
:_Xem các trường có cùng tên Hai Bà Trưng tại bài định hướng Trường Hai Bà Trưng_ **Trường THPT Hai Bà Trưng** tại Huế là một trong những ngôi trường lớn và có lịch sử
**Đền Hai Bà Trưng** còn gọi là **đền Hạ Lôi** ở _thôn Hạ Lôi_ xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Đền thờ hai vị liệt nữ - anh hùng dân tộc
**Đường Hai Bà Trưng** là một con đường tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh. Đường này dài khoảng 2,97 km, đi qua hai quận trung tâm là Quận 1 và Quận 3. ##
**Hai Bà Trưng** là một phường thuộc thành phố Hà Nội, thủ đô của Việt Nam. Phường được hình thành trên cơ sở sáp nhập các phường Đồng Nhân, phường Phố Huế, một phần diện
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và nhân dân Âu Lạc tuy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi nhưng đó chính là một bản anh hùng ca mở đầu cho cuộc đấu
Bệnh viện Mắt Hà Nội tọa lạc ở địa chỉ số 37 Hai Bà Trưng, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Là bệnh viện chuyên khoa đầu ngành Mắt của thành phố Hà
**Hai Bà Trưng** là một phường thuộc thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam. Phường được thành lập năm 2024 trên cơ sở sát nhập 2 phường cũ Trưng Trắc và Trưng Nhị.
**Minh Khai** là một phường thuộc quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Tên phường được đặt theo tên nhà cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai. Phường có diện tích 0,47 km², dân
**Trưng Nhị** (chữ Hán: 徵貳; ? - 5 tháng 3 năm 43) là nữ phó vương vương quốc Lĩnh Nam và là nữ thủ lĩnh chống sự đô hộ của nhà Đông Hán thời Bắc
**Trưng Trắc** (chữ Hán: 徵側, ? - 5 tháng 3 năm 43) là Nữ Vương của vương quốc Lĩnh Nam và anh hùng dân tộc của người Việt, người đứng đầu cuộc khởi nghĩa chống
:''Xem các mục từ khác cùng tên tại bài Chúa Bầu (định hướng) **Bà Chúa Bầu** là một nữ tướng của Hai Bà Trưng trong lịch sử Việt Nam, có công đánh đuổi thái thú
**Phố Bà Triệu** của Hà Nội chạy từ ngã tư Hàng Khay - Tràng Thi, Lê Thái Tổ - Bà Triệu tới đường Đại Cồ Việt. ## Vị trí - Đặc điểm trái|nhỏ Đường Bà
**Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương** là bệnh viện đầu ngành về YHCT, trực thuộc Bộ Y tế - Trung tâm hợp tác về y học cổ truyền (YHCT) của Tổ chức y
**Ba Trung Đàm** (; tháng 1 năm 1930 – 15 tháng 11 năm 2018) là Trung tướng Giải phóng quân Nhân dân (_PLA_) và Cảnh sát Vũ trang Nhân dân (_PAP_). Ông từng là Tư
**Mặt trận Địa Trung Hải và Trung Đông** trong Chiến tranh thế giới thứ hai gồm nhiều trận đánh trên biển, đất liền và trên không giữa quân đội Đồng Minh và khối Trục tại
-NeO chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố cốt lõi để tạo dựng uy tín với khách hàng . Neo luôn đặt khách hàng là trọng tâm , luôn nỗ lực vì người tiêu
MÔ TẢ SẢN PHẨM-NeO chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố cốt lõi để tạo dựng uy tín với khách hàng . Neo luôn đặt khách hàng là trọng tâm , luôn nỗ lực
MÔ TẢ SẢN PHẨM-NeO chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố cốt lõi để tạo dựng uy tín với khách hàng . Neo luôn đặt khách hàng là trọng tâm , luôn nỗ lực
Nếu người đàn bà sinh ra chỉ để làm bạn với bếp núc, thì cái câu Giặc đến nhà đàn bà phải đánh chẳng là vô nghĩa lắm Không, giang san đôi gánh nặng, trách
Tẩy tế bào chết chuyên sâu 60% -JANSSEN COSMETICS EXFOLIATOR 60 50MLTên sản phẩmTẩy tế bào chết chuyên sâu 60%JANSSEN COSMETICSEXFOLIATOR 60 50MLXuất xứĐứcQuy cáchHộpDung tích50mlCông dụngTẩy tế bào chết với nồng độ 60% axit
Bộ Truyện Tranh Lịch Sử Việt Nam - Khát Vọng Non Sông Trưng Trắc Xưng Vương Bộ sách Truyện tranh lịch sử Việt Nam Khát vọng non sông gồm hàng trăm tập, giới thiệu ngắn
✨SHOP CAM KẾT Sản phẩm có hình ảnh thực tế, thông số đúng như mô tả Đổi trả 1 đổi 1 trong 7 ngày nếu sản phẩm lỗi từ nhà sản xuất hoặc SHOP Khách
✨SHOP CAM KẾT Sản phẩm có hình ảnh thực tế, thông số đúng như mô tả Đổi trả 1 đổi 1 trong 7 ngày nếu sản phẩm lỗi từ nhà sản xuất hoặc SHOP Khách
**Hải Phòng** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Đây là thành phố lớn thứ 3 Việt Nam về quy mô kinh tế, đồng thời là một thành phố
Hoa phượng đỏ, biểu tượng của người Hải Phòng Dưới đây là **danh sách những nhân vật tiêu biểu** là những người đã sinh ra tại Hải Phòng, có quê quán (nguyên quán) ở Hải
Tượng Nữ tướng Lê Chân ở Hải Phòng. **Lê Chân** (; 20 - 43) là một trong những nữ tướng xuất sắc của Hai Bà Trưng. Bà được coi là người có công khai khẩn
**Hải Dương** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Thành phố Hải Dương là trung tâm kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, khoa học, y tế, dịch vụ của tỉnh
**Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn** (hay **Vương cung thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội**, tiếng Anh: _Immaculate Conception Cathedral Basilica_, tiếng Pháp: _Cathédrale Notre-Dame de Saïgon_), thường được
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
**Xuân Nương** hay **Nàng Xuân** (23? - 43), hiệu là _Hoa_; là một nữ tướng thời Hai Bà Trưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Xuân Nương** là người xã
[[Nhà hát lớn Hải Phòng]] **Kiến trúc của thành phố Hải Phòng** là sự pha trộn hài hòa giữa 2 nền văn hóa Á - Âu. Sự pha trộn này tạo ra cho thành phố
**Thánh Thiên** (10 - 43) là một bậc nữ tướng trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40 - 43 sau CN) trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Không rõ tên thật
**Hoàng Thiều Hoa** (3 - 41) là một nữ tướng của Hai Bà Trưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Thiều Hoa sinh ngày mùng 2 tháng 1 năm Quý Hợi (năm 3
**Ả Chạ** hay **Lê Ngọc Trinh** (20 - 43) là một nữ tướng thời Hai Bà Trưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê Ngọc Trinh tên là Ả Nương hay Ả Chạ,
**Hồ Đề** còn được gọi là **Đào Nương Công chúa** hay **Đề Nương Công chúa**, là một nữ tướng thời Hai Bà Trưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Theo truyền thuyết và
**Phật Nguyệt** (23 - 43) là một nữ tướng thời Hai Bà Trưng trong lịch sử Việt Nam. Bà là nữ tướng gây kinh hoàng cho nhà Hán nhất khi có trận chiến thắng Mã
**Chiến tranh Hán-Việt 42-43** là một cuộc chiến do tướng nhà Đông Hán Mã Viện chỉ huy chống lại quân nổi dậy của Hai Bà Trưng ở đất Việt năm 42-43. ## Hoàn cảnh Sau
**Quan hệ Ba Lan–Việt Nam** là mối quan hệ giữa Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong lịch sử. Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào
### 1. Thân thế và chí khí anh hùng Tướng quân **Đào Kỳ**, còn gọi là **Đào Tam Lang**, quê tại làng Hội Phụ, tổng Cối Giang, thuộc phủ Từ Sơn xưa, nay là xã
**Quý Lan** còn được gọi là **An Bình Công chúa** hay **Nái Sơn Công chúa**, là một nữ tướng thời Hai Bà Trưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Theo thần tích, Quý
Vị trí của Ba Trung trong Tứ Xuyên (màu vàng) **Ba Trung** (巴中市) là một địa cấp thị thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong thời Xuân Thu, khu vực này
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
**Bát Nàn** (17–43), có nơi gọi là **Bát Nạn** hay **Bát Não**, **Chầu Tám Bát Nàn**, là một nữ tướng thời Hai Bà Trưng trong lịch sử Việt Nam. Bà được xem là một trong
**Nàng Hoa** hay **Lê Thị Hoa** (; 2 TCN - 41) là một nữ tướng thời Hai Bà Trưng, khởi nghĩa tại vùng Nga Sơn (Thanh Hóa). ## Tiểu sử Theo thần phả đã có
**Trường Trung học phổ thông Thăng Long** là một trường trung học phổ thông công lập tại quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. ## Lịch sử hình thành Năm 1920, trường tư thục
**Man Thiện** (; ? - 43) là mẹ của Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị). ## Tiểu sử Quê bà Man Thiện ở tổng Cam Giá, trấn Sơn Tây. Theo _Việt Nam danh