Nguyễn Hữu Huân (chữ Hán 阮有勳, 1830-1875) là một sĩ phu yêu nước và là một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19. Ông được biết nhiều qua biệt danh Thủ khoa Huân.
Thân thế và sự nghiệp của ông thủ khoa Huân
Nguyễn Hữu Huân là người làng Tịnh Hà, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường; tương ứng với danh nghĩa là xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang).
Thuở nhỏ ông thông minh và học giỏi. Tương truyền, năm Nhâm Tý (1852) dưới triều Tự Đức, ông dự thi Hương và đỗ đầu (thủ khoa), nên được gọi là Thủ khoa Huân. Sau đó, ông được bổ nhiệm và dần trải đến chức Giáo thụ phủ Kiến An .
Khi quân Pháp xâm lược ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (trong đó có tỉnh Định Tường quê ông), cũng giống như nhiều nhà nho yêu nước khác, ông đã cầm vũ khí đứng lên chống Pháp vào tháng 5 năm 1859, và được cử giữ chức Phó quản đạo.
Năm 1861, ông cùng nghĩa quân hoạt động trên địa bàn từ Tân An đến Mỹ Tho. Khoảng tháng 6 năm 1862, Nguyễn Hữu Huân đem nghĩa quân gia nhập lực lượng Trương Định.
Ngày 5 tháng 2 năm 1863, quân Pháp tấn công vào căn cứ Tân Hòa (Gò Công). Căn cứ thất thủ, Trương Định kéo quân về vùng Lý Nhơn (nay thuộc huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh). Khi ấy, Nguyễn Hữu Huân về khởi nghĩa ở Bình Cách (Tân An), trực tiếp lãnh đạo lực lượng nghĩa quân ở Định Tường. Quân Pháp tấn công Bình Cách, Nguyễn Hữu Huân phải rút quân về Thuộc Nhiêu (nay thuộc Cai Lậy, Tiền Giang),
Tháng 6 năm 1863, lúc ban đêm Pháp bất ngờ đem quân càn quét căn cứ Thuộc Nhiêu. Đến đến cuối năm đó, thì ông rút quân đến An Giang gặp Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên hộ Dương). Đầu năm sau (1864), ông cùng thủ lĩnh Dương chiêu mộ nghĩa binh để khởi nghĩa lần thứ hai.
Nguyễn Hữu Huân cho chuyển quân về vùng Thất Sơn, An Giang tiếp tục chiến đấu. Bộ chỉ huy quân đội Pháp rất lo ngại nên gửi tối hậu thư, buộc Tổng đốc An Giang là Phan Khắc Thận phải giao nộp Thủ Khoa Huân cho họ làm tội, viện lẽ ông này không tuân theo Hòa ước Nhâm Tuất (1862).
Giáo sư Nguyễn Văn Hầu chép:
: Sau khi Đô đốc Nam Kỳ là De La Grandière biết tin Thủ khoa Huân lẫn trốn ở Thất Sơn, viên sĩ quan Pháp này buộc Tổng đốc An Giang phải bắt ông Huân, giao cho họ làm tội. Tổng đốc An Giang không thuận. Tức thời, Doudart de Lagrée được lệnh đem 500 quân cùng đại bác từ Oudong (Campuchia) xuống uy hiếp thành An Giang. Trước áp lực đó, Tổng đốc An Giang đành nhượng bộ .
Nghe tin ông bị bắt, vợ là Lê Thị Lộc đã đến An Giang để đưa đơn xin tha cho chồng nhưng không kịp. Bị giải đến Sài Gòn, mặc dù thực dân Pháp đem mọi thứ ra dụ hàng nhưng Thủ khoa Huân vẫn kiên quyết chối từ. Cuối cùng, vào ngày 22 tháng 8 năm 1864, ông bị kết án 10 năm tù khổ sai và bị đày đi Cayenne, là một thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ.
Sau 5 năm tù, ngày 4 tháng 2 năm 1869, Pháp cho lệnh ân xá và đưa ông về quản thúc tại nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, đồng thời cử ông làm giáo thọ dạy bảo cho các "sinh đồ" ở Chợ Lớn với hy vọng lôi kéo ông về phía họ.
Lợi dụng điều kiện đi dạy học, Nguyễn Hữu Huân liên lạc với các sĩ phu yêu nước và hội kín Hoa kiều Trường Phát, nhờ mua vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa. Trong khi cuộc khởi nghĩa đang được chuẩn bị khẩn trương, nhờ do thám nên Pháp bắt được thuyền chở vũ khí. Trước tình hình bất lợi đó, ông ra lệnh giải tán, bí mật trốn khỏi nhà Tổng đốc Phương tìm đường về lại Mỹ Tho họp cùng Âu Dương Lân tiến hành khởi nghĩa lần thứ ba (1872). Lần này dân chúng theo Nguyễn Hữu Huân rất đông, trong số đó có cả một số hương chức, hội tề, địa chủ... Địa bàn kháng chiến của ông kéo dài từ Mỹ Tho đến Mỹ Quý - Cai Lậy.
Cuối năm 1874, quân Pháp có Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương đánh vào căn cứ ở Bình Cách. Cản ngăn không nổi, nghĩa quân bỏ chạy tán loạn. Nguyễn Hữu Huân thoát được về Chợ Gạo, đến khoảng tháng 3 năm sau, ông trở lại vùng Tân An để tập hợp lại lực lượng, thì bị bắt vì bị chỉ điểm.
Nhà cầm quyền Pháp (Tỉnh trưởng Mỹ Tho de Gailland: 1873 - 1875)) ra lệnh bắt giam Nguyễn Hữu Huân ở Mỹ Tho. Sau khi chiêu hàng không thành, họ kết án tử hình ông. Trước khi thụ hình, ông nhắn vợ con tế sống mình và gửi vải vào cho ông đề thơ và câu liễn (Liễn tuyệt mệnh) thờ.
Ngày 15 tháng 4 năm Ất Hợi (tức 19 tháng 5 năm 1875), người Pháp cho tàu chở Nguyễn Hữu Huân xuôi theo dòng Bảo Định về Mỹ Tịnh An và hành quyết ông lúc 12 giờ trưa. Sau này, những người theo chủ nghĩa dân tộc vẫn tôn vinh ông như một vị anh hùng dân tộc.
Tác phẩm
Tượng đài Thủ Khoa Huân tại thành phố Mỹ Tho
Nguyễn Hữu Huân làm thơ không nhiều, và hầu hết sáng tác của ông đều làm trong thời kỳ kháng Pháp. Tuy nhiên, qua bài thơ Tặng vợ (làm lúc bị Pháp bắt lần đầu), bài Tự Thuật (làm khi bị đày sang Guyan), và nhiều bài khác như: Bửa củi, Cảm hoài, Thuật hoài, Hò khoan ca, Khi được tha về... đều tỏ rõ ý chí bền bỉ tranh đấu vì đất nước và nhân dân của ông. Vì vậy, Nguyễn Hữu Huân được ghi nhận là "một hiện tượng đặc sắc của văn học yêu nước thế kỷ 19 của Việt Nam: hiện tượng nhà thơ - chiến sĩ."
Giới thiệu hai câu Liễn tuyệt mệnh do Nguyễn Hữu Huân làm trước khi mất, hiện được treo trang trọng tại bàn thờ ông ở Mỹ Tịnh An.
:Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị,
:Tuy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân.
:Tạm dịch:
:''Việc lớn không thành, báo chúa cũng đành liều một chết;
:Lòng ngay khó tỏ, miệng đời luống để luận trăm năm.
Hình ảnh công cộng
Trên đường từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho, qua TP Tân An đến ngã ba Hoà Tịnh, rẽ trái khoảng 3 cây số, sẽ đến Tịnh Hà. Gần đến cầu Tịnh Hà (cầu Cai Lộc) bắc qua rạch Bảo Định, rẽ trái đi thêm nửa cây số, thì sẽ thấy đền thờ và phần mộ của Thủ khoa Huân. Trước kia, nơi đây kéo dài ra cầu sắt Cai Lộc là bãi chợ Phú Kiết. Trở ra cầu Cai Lộc cạnh ngã tư (đường xuống Nhựt Tiên, đường ra Phú Kiết, đường về Tân An, đường Lên giồng Tân Hiệp) sẽ thấy một tấm bia mộ kỷ niệm nơi ông thọ án.
Mộ và đền Thủ khoa Huân được xây dựng ngay tại quê nhà của ông. Ban đầu mộ được đấp bằng đất, đầu thế kỷ 20, cháu ngoại của ông là Trần Văn Thông xây lại bằng đá xanh. Trong đền thờ có nhiều hoành phi và câu đối ca ngợi khí tiết của Thủ Khoa Huân.
Nhiều tỉnh thành tại Việt Nam, tên Nguyễn Hữu Huân (hay Thủ Khoa Huân) thường được dùng để đặt tên cho trường học, cho đường phố, đặc biệt, tên ông còn được đặt cho con đường đi qua THPT cùng tên ở Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh – nơi đào tạo ra những học sinh tài năng.
Tồn nghi
Tương truyền, Nguyễn Hữu Huân sinh năm 1830, và đỗ thủ khoa năm Nhâm Tý (1852). Song qua cuộc điều tra và tính toán, nhóm tác giả Phạm Thiều-Cao Tự Thanh-Lê Minh Đức đã đặt giả thuyết khác là: Nguyễn Hữu Huân rất có thể sinh năm Bính Tý (1816) và thi đỗ năm ông 36 tuổi.
Qua nghiên cứu, nhóm này cũng đã kết luận rằng bài thơ Hãn mã gian quan không phải là thơ tuyệt mệnh của ông, nhưng rất có thể do ông làm để ca ngợi Thị độc học sĩ sung Binh bị Trần Xuân Hòa vào khoảng đầu mùa thu năm 1864, khi ông này bị quân Pháp giải qua vùng sông Mỹ Tho (sau ông Hòa cắn lưỡi mà chết).
Bài Mang gông mà xưa nay được nhiều người cho là của Nguyễn Hữu Huân, theo học giả Trương Vĩnh Ký cũng không phải là của ông, mà là của ông Hoành, ông Trắm đã ứng khẩu đọc do dân chúng nghe khi bị bắt giải về Huế, chịu án xử lăng trì . Ngoài ra, bài Cây bắp cũng chưa chắc là của ông .
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Hữu Huân** (chữ Hán 阮有勳, 1830-1875) là một sĩ phu yêu nước và là một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19.
**Trường Trung học phổ thông Nguyễn Hữu Huân** là một Trường Trung học phổ thông công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh được đặt tên theo tên sĩ phu yêu nước Nguyễn Hữu Huân.
**Nguyễn Hữu Thắng** (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1971 hoặc tháng 7 năm 1972) là một cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Thời còn thi đấu ông chơi ở vị trí hậu
Thượng tướng, Phó Giáo sư **Nguyễn Hữu An** (1926-1995) là một tướng lĩnh quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông tham gia Kháng chiến chống Pháp, Kháng chiến chống
**Nguyễn Hữu Hùng** (26 tháng 7 năm 1970 - 13 tháng 10 năm 2020) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thiếu tướng. Tại thời điểm gặp nạn, ông giữ
**Nguyễn Hữu Trí** (1926-1993) là một Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thứ hai của lực lượng Tình báo Quốc phòng, nguyên quyền trưởng phòng
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**Nguyễn Hữu Việt** (1 tháng 10, 1988 – 25 tháng 3, 2022) sinh ra và lớn lên tại Hải Phòng. Anh từng là vận động viên xuất sắc nhất của bơi lội Việt Nam tại
**Nguyễn Hữu Trí** (1903 – 1954) là nhà chính trị Việt Nam, nguyên Thủ hiến Bắc phần của chính thể Quốc gia Việt Nam thập niên 1950. Nguyễn Hữu Trí đồng thời là Tổng bí
**Nguyễn Hữu Kim Sơn** (sinh ngày 15 tháng 3 năm 2002) là một nam vận động viên thuộc đội tuyển bơi lội quốc gia Việt Nam. Được mệnh danh là "thần đồng bơi lội" của
**Nguyễn Hữu Cầu** (1879-1946), hiệu **Giản Thạch**, thường được gọi "Ông Cử Đông Tác" là một nhà nho tiến bộ, đồng sáng lập viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục (viết tắt ĐKNT) năm 1907 tại
**Nguyễn Hữu Chính** (sinh 1959) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2015-2019) ## Thân thế và sự nghiệp
**Nguyễn Bá Huân** (1853-1915) tự **Ôn Thanh**, hiệu **Mộ Chân sơn nhân**, sau lấy tên hiệu nữa là **Ái Cúc ẩn sĩ**; là một danh sĩ thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Hữu Thọ** (10 tháng 7 năm 1910 – 24 tháng 12 năm 1996) là một luật sư, nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông là Phó Chủ tịch nước Việt Nam sau
**Nguyễn Hữu Khai** (1953–2018) là một doanh nhân tại Việt Nam, chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Bảo Long. ## Tiểu sử * Nguyễn Hữu Khai sinh ra trong một gia đình đông
**Nguyễn Công Huân** (7 tháng 3 năm 1953 – 6 tháng 4 năm 2018) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông nguyên là Cục trưởng
**Nguyễn Hữu Thụ** (1926 – 2013) là nhà cách mạng và chính khách Việt Nam, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV (Dự khuyết), Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
**Nguyễn Hữu Mai** tức Nguyễn Từ (1914-1987), quê ở tại Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, là nhà hoạt động cách mạng, nhà chính trị Việt Nam, Ủy viên Ban
**Nguyễn Hữu Hào** (chữ Hán: 阮有豪, 1642 - 1713) là một tỳ tướng của chúa Nguyễn. Ngoài vai trò cầm quân, ông còn là thi sĩ với tác phẩm _Song Tinh bất dạ_ và một
**Nguyễn Hữu Thận** (chữ Hán: 阮有慎; 01 tháng 3, 1757- 12 tháng 8, 1831), tự **Chân Nguyên**, hiệu **Ý Trai** (hoặc **Ức Trai**, chữ Hán: 意齋); là nhà toán học và nhà thiên văn học,
**Nguyễn Hữu Hạnh** (26 tháng 8 năm 1924 – 29 tháng 9 năm 2019) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng, tình báo viên
**Nguyễn Hữu Cơ** (Hán tự: 阮有機; 1804-?) là một danh sĩ và đại thần triều Nguyễn. Ông đỗ Đình nguyên Hoàng giáp khoa thi Hội năm Ất Mùi 1835, quan trường đến chức Tổng đốc
**Nguyễn Hữu Đàn** (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1974) là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông hiện là Đại tá, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị, Phó Bí
**Nguyễn Hữu Cường** (sinh 1954) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên là Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu 4 ## Thân
**Nguyễn Hữu Đang** (sinh năm 1969 tại Nha Trang, Khánh Hòa) là cầu thủ trong Khánh Hòa. Ông được xem là người có đóng góp lớn đối với bóng đá Khánh Hòa trong suốt hơn
**Nguyễn Hữu Lê** (1926 – 29 tháng 12 năm 2022) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 1. ## Cuộc
**Nguyễn Hữu Cương** (1855-1912) là một nhà cách mạng Việt Nam hoạt động tích cực chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. ## Tiểu sử Nguyễn Hữu Cương sinh năm 1855,ông
## Tiểu sử Thiếu tướng Nguyễn Hữu Vị, tên thường gọi: Tám Vị Ông sinh năm 1930, qua đời ngày 12 tháng 12 năm 2018, hưởng thọ 89 tuổi. Ông nguyên là Ủy viên Ban
**Nguyễn Hữu Tần** (1930-2008), nguyên là một tướng lĩnh Không Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan do Chính phủ Quốc gia được
**Nguyễn Hữu Chánh** là một chính khách người Việt hải ngoại, Chủ tịch Đảng Dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên ngày 25 tháng 7 năm 2004, tại hội trường Sequoia Center trên đường Orangthorepe Ave
**Nguyễn Hữu Ba** (1914 - 1997), là nhạc sĩ tân nhạc, nhà nghiên cứu, nhạc sư cổ nhạc Việt Nam, nguyên Giám đốc Trường Quốc gia Âm nhạc Huế, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban
Bảng nhãn **Nguyễn Chiêu Huấn (阮昭訓)** (?-?) là một chính trị gia và nhà thơ thời Lê Sơ trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Chiêu Huấn quê làng Yên Phụ, huyện Yên
**Nguyễn Trí Huân** (sinh năm 1947) là nhà văn Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Ông là Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, đã
**Nguyễn Hữu Tình** (sinh năm 1935), bí danh **Hà Bắc**, là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng Tổng
**Nguyễn Hữu Huy** (1942 – 2013) là một võ sĩ judo và nguyên huấn luyện viên trưởng đội tuyển judo quốc gia Việt Nam. Ông là một trong những đai đen đầu tiên của judo
**Nguyễn Hữu Hạ** (1 tháng 9 năm 1949 – 10 tháng 7 năm 2022) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. ## Khen thưởng * Huân
**Nguyễn Hữu Liêu** (阮有僚, 1532-1597) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là người làng Tây Đam, nay là xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông
**Nguyễn Hữu Việt Hưng** là một nhà toán học, giáo sư, nhà giáo Ưu tú, nhà giáo Nhân dân người Việt Nam, hội viên Hội Toán học Hoa Kỳ. Ông nghiên cứu về Tô pô
**Nguyễn Hữu Đức** (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1958) là một nhà khoa học về lĩnh vực Khoa học Tự nhiên. Ông là giáo sư, nhà giáo nhân dân, nhà vật lý và quản
**Nguyễn Hữu Xuyến** (1917–2007), bí danh **Tám Xuyến**, **Tám Kiến Quốc**, là một vị tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam mang quân hàm Trung tướng, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh
**Nguyễn Hữu Thắng** (sinh ngày 22 tháng 6 năm 1980) là một cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Thời còn thi đấu, ông chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ
**Nguyễn Hữu Khảm** là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (2002–2010). ## Thân thế
**Nguyễn Quang Hải** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ
**Đồng Sĩ Nguyên** (1 tháng 3 năm 1923 – 4 tháng 4 năm 2019), còn được viết là **Đồng Sỹ Nguyên**, tên thật **Nguyễn Hữu Vũ**, là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
**Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm** (1929–2003) là một Giám mục Giáo hội Công giáo Roma người Việt Nam. Ông từng giữ chức Giám mục chính tòa ở Giáo phận Thanh Hóa và Giáo phận Đà Lạt.
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
thumb| 7 tiền Phi Long, tiền thưởng bằng bạc được đúc vào năm 1833, niên hiệu [[Minh Mạng thứ 14, mặt trước là hình rồng 5 móng lượn hình chữ S, với đường kính 41