Nguyễn Hữu Hạnh (26 tháng 8 năm 1924 – 29 tháng 9 năm 2019) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng, tình báo viên của quân Giải phóng miền Nam. Ông thường được biết với vai trò là Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, người đã tác động để Tổng thống Dương Văn Minh sớm ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa đầu hàng trước sức tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào cuối tháng 4 năm 1975, chấm dứt cuộc Chiến tranh Việt Nam. Sau này, người ta mới biết được rằng ông chính là một tình báo viên của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Sau năm 1975, ông sống với gia đình ở quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015. Sau đó ông trở về quê Mỹ Tho.
Lúc 6h40 ngày 29 tháng 9 năm 2019, ông từ trần vì tuổi cao sức yếu tại Bệnh viện Thống Nhất, hưởng thọ 95 tuổi. Ngày 2 tháng 10 năm 2019, ông được an táng tại xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Hữu Hạnh là nhân vật chính của tiểu thuyết Viên chuẩn tướng của Nguyễn Trần Thiết.
Thân thế và bước đầu binh nghiệp
Ông sinh ngày 26 tháng 8 năm 1924 (theo trích lục tòa thì sinh ngày 10 tháng 7 năm 1926) tại Phú Phong, Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (bây giờ là tỉnh Tiền Giang). Năm 1945, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Mỹ Tho với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Quân đội Liên hiệp Pháp
Đầu năm 1949, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 46/103072. Theo học tại trường Võ bị Địa phương Nam Việt Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Mãn khóa cùng năm, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy. Ra trường ông được điều đi phục vụ tại một đơn vị Bộ binh giữ chức vụ Trung đội trưởng dưới quyền Thiếu úy Đại đội trưởng Dương Văn Minh, khởi đầu của mối quan hệ thân tình của ông với tướng Dương Văn Minh về sau này. Giữa năm 1950, ông được thăng cấp Thiếu úy tại nhiệm. Cuối năm 1951, ông được thăng cấp Trung úy làm Đại đội trưởng Bộ binh.
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Năm 1952, Quân đội Quốc gia thành lập Bộ Tổng Tham mưu, chính thức chuyển sang cơ cấu mới này, ông được thăng cấp Đại úy và được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Phân khu Sài Gòn-Chợ Lớn.
Đầu năm 1954, ông học khóa liên đoàn trưởng Liên đoàn lưu động (GM) tại Hà Nội. Cuối năm 1954, với cấp bậc thiếu tá trung đoàn phó trung đoàn 11, ông nhận tiểu khu Long Xuyên do Pháp giao lại. Ông được gán mật danh là S7 hoặc Sao Mai, nhưng hầu như không được giao nhiệm vụ gì có thể ảnh hưởng đến vị trí của ông. Ông và ông Thành giữ liên lạc với nhau đến tận cuối năm 1974. Nguyễn Hữu Hạnh đã cung cấp cho cách mạng các tin tức chiến lược như: khi Phước Long thất thủ, ông nói không có quân tiếp viện. Buôn Mê Thuột bị bỏ ngỏ, quân Việt Nam cộng hòa không có chuẩn bị, khi thất thủ không có tổ chức nào ở lại hậu phương. Khi quân giải phóng tiến về miền Nam, ông đề nghị quân xung kích Giải phóng quân cần tiến nhanh, không sợ bị phản công, ở hậu phương khi cần giao lãnh thổ lại cho địa phương quân. Đối với nội bộ chế độ Sài Gòn, ông tìm cách kích động những sĩ quan chống lại chính sách của Nguyễn Văn Thiệu, chống tham nhũng. Ông còn đồng ý cho tướng Toàn rút Bộ tư lệnh quân đoàn 3 về bên kia sông Đồng Nai (vì biết tướng Toàn muốn đào ngũ), nhờ đó quân Giải phóng chiếm Biên Hoà một cách dễ dàng.
Ngoài ra, ông cho Quân cảnh tung hết các lực lượng để giữ an ninh trật tự cho thành phố, thu hồi và đưa về quân vụ súng ống của các quân nhân đi lẻ tẻ ngoài phố
Khi được làm phụ tá tổng tham mưu trưởng, ông đã vận động để thúc đẩy ông Dương Văn Minh đơn phương tuyên bố bàn giao quyền lại cho Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Ông cũng là một trong 2 tướng lĩnh bên cạnh Tổng thống Dương Văn Minh trong giờ phút cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa (người thứ 2 là Trung tướng Nguyễn Hữu Có, đối thủ cũ của tướng Dương Văn Minh).
Sau năm 1975, do là tình báo viên ghi công trong việc tác động đến sự đầu hàng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông không phải đi cải tạo, mà còn được giữ chức vụ Tổng thư ký Hội nhân dân bảo trợ Nhà trường, sau được bầu Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là Nhân sĩ yêu nước và giữ chức vị đó cho đến khi về hưu.
Ngoài ra, ông còn được Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tặng Huân chương Quân công hạng nhất
Vị tư lệnh thận trọng
Trong cuộc đảo chính Tổng thống Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, chính ông đã ngầm ủng hộ cho tướng Dương Văn Minh làm đảo chính, hỗ trợ Đại tá Nguyễn Hữu Có chiếm quyền chỉ huy Sư đoàn 7 Bộ binh, khuyên tướng Huỳnh Văn Cao án binh bất động, ngăn cản Lực lượng quân đoàn IV về chống đảo chính, giúp cuộc đảo chính thành công.
Năm 1967, ông được chỉ định giữ chức vụ Phó Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh do Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh (tức Minh Đờn) làm Tư lệnh.
Năm 1968, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu 44 (bao gồm Hà Tiên, Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường). Trong nhiều lần đối mặt với lực lượng cách mạng, ông đều lệnh cho binh sĩ đánh ở thế giằng co mà không tiến chiếm mục tiêu. Khi quân giải phóng rút quân ông cũng ra lệnh rút quân về. Các cố vấn Mỹ mỉa mai gọi ông là "Tư lệnh thận trọng", "Tư lệnh không bao giờ chiếm mục tiêu".. Ông đã từ chối không B 52 thả bom vào mật khu trên Kênh Tháp Mười, viện lẽ quá đông dân.
Lúc ông làm tư lệnh phó sư đoàn 21, trong những cuộc hành quân, ông chia sẻ: "Tôi cho lệnh trực thăng võ trang phải thận trọng, khi nào dưới đất bắn lên mới được bắn lại". Ông nói với thiếu tướng Nguyễn Văn Minh (tức Minh Đờn), tư lệnh sư đoàn: "Sư đoàn đã sử dụng hỏa lực bừa bãi. Thấy cảnh chết chóc nhiều tôi không chịu nổi, có lẽ tôi sẽ không làm việc lâu với anh".
Gia đình
Ông nội của ông là Nguyễn Quang Phát, bà nội là Phạm Thị Trà. Cha là Nguyễn Hữu Điệt. Mẹ là Nguyễn Thị Có (Tư Hiền).
Ông có 11 người con, có người sinh sống ở Đức, hầu hết sinh sống làm ăn ổn định tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau ngày người bạn đời mất, ông buồn bã thường về dưới quê sống
Trong thời gian lưu lại Châu Thành, Tiền Giang, ông đã giúp đỡ cho bà Trần Thị Hiệp (còn gọi là bà Tư bóng), một phụ nữ góa chồng, nuôi năm con rất nghèo với nghề bán vé số dạo nhỏ hơn ông 33 tuổi. Ông quay về Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh mượn 30 triệu đồng trả góp trừ lương 2 triệu/tháng để xây một căn nhà khoảng 30m² ngay nghĩa địa làm nơi sinh sống. Các con của ông kịch liệt phản đối, ông cương quyết với lập trường tình yêu tuổi già nên cuối cùng các con cháu ông phải nhượng bộ
👁️
3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Hữu Hạnh** (26 tháng 8 năm 1924 – 29 tháng 9 năm 2019) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng, tình báo viên
**Nguyễn Hữu Hào** (chữ Hán: 阮有豪, 1642 - 1713) là một tỳ tướng của chúa Nguyễn. Ngoài vai trò cầm quân, ông còn là thi sĩ với tác phẩm _Song Tinh bất dạ_ và một
**Nguyễn Hữu Cầu** (1879-1946), hiệu **Giản Thạch**, thường được gọi "Ông Cử Đông Tác" là một nhà nho tiến bộ, đồng sáng lập viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục (viết tắt ĐKNT) năm 1907 tại
**Nguyễn Hữu Thận** (chữ Hán: 阮有慎; 01 tháng 3, 1757- 12 tháng 8, 1831), tự **Chân Nguyên**, hiệu **Ý Trai** (hoặc **Ức Trai**, chữ Hán: 意齋); là nhà toán học và nhà thiên văn học,
**Nguyễn Văn Hạnh** (sinh ngày 6 tháng 1 năm 1959) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Phó Chánh án Tòa án Nhân
**Nguyễn Hữu Cầu** (sinh ngày 20 tháng 11 năm 1962 tại xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân
**Nguyễn Văn Huyền** (1913 – 1995) là chính khách Việt Nam. Ông từng là Chủ tịch Thượng viện đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa (1967–1973), nguyên Phó tổng thống đặc trách hòa đàm dưới
**Nguyễn Thị Hạnh** (chữ Hán: 阮氏幸; ? – 20 tháng 4 năm 1881), phong hiệu **Thất giai Quý nhân** (七階貴人), là một thứ phi của vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
**Trần Hữu Hạnh** có tên nhà báo là Trần Hạnh, (sinh năm 1954 tại Huế - mất 3/9/2015 ở Melbourne, Úc), từng là Trưởng ban Việt Ngữ đài ABC tại Úc, và là người Việt
**Nguyễn Hữu Ba** (1914 - 1997), là nhạc sĩ tân nhạc, nhà nghiên cứu, nhạc sư cổ nhạc Việt Nam, nguyên Giám đốc Trường Quốc gia Âm nhạc Huế, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Hữu Châu** (sinh ngày 22 tháng 1 năm 1966), thường được biết đến với nghệ danh **Hữu Châu**, là một nam diễn viên người Việt Nam. ## Tiểu sử Hữu Châu sinh ngày 22
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Philipphê Nguyễn Kim Điền** (13 tháng 3 năm 1921 – 8 tháng 6 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận
**Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm** (1929–2003) là một Giám mục Giáo hội Công giáo Roma người Việt Nam. Ông từng giữ chức Giám mục chính tòa ở Giáo phận Thanh Hóa và Giáo phận Đà Lạt.
**Nguyễn Phúc Hồng Cai** (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu **Kiên Thái vương** (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
nhỏ|Giáo sư Nguyễn Thúc Hào **Nguyễn Thúc Hào** (6 tháng 8 năm 1912 – 9 tháng 6 năm 2009) là một giáo sư người Việt Nam. Ông đã từng giữ chức Hiệu trưởng Trường Đại
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Nguyễn Huy Lượng** (chữ Hán: 阮輝諒; 1750 - 1808) là nhà chính trị, danh sĩ nổi tiếng ở cuối đời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn đến đầu đời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Bá Cẩn** (9 tháng 9 năm 1930 – 20 tháng 5 năm 2009) là cựu chính khách Việt Nam Cộng hòa. Ông từng giữ chức vụ Chủ tịch Hạ nghị viện và Thủ tướng
**Nguyễn Bính** (tên thật là **Nguyễn Trọng Bính**; 1918–1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài
**Nguyễn Văn Huyên** (1905-1975) là một giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Nguyễn Đức Chung** (sinh ngày 3 tháng 8 năm 1967) là một cựu Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông là cựu Chủ tịch Ủy ban
**Nguyễn Nguyên Thành** (1825-1887), tự **Uẩn Phủ**, hiệu **Hương Phong**, là một danh sĩ Việt Nam và cũng là một trong những lãnh tụ của Phong trào Văn thân cuối thế kỷ 19. ## Thân
**Nguyễn Văn Thông** (30 tháng 11 năm 1926 – 25 tháng 9 năm 2010) là một đạo diễn, nhà văn và biên kịch điện ảnh người Việt Nam, Đại tá Quân đội nhân dân Việt
**Nguyễn Phúc Miên Ôn** (còn có âm đọc là **Ổn**) (chữ Hán: 阮福綿㝧; 15 tháng 3 năm 1833 – 1 tháng 2 năm 1895), tước phong **Nam Sách Quận công** (南策郡公), là một hoàng tử
**Nguyễn Phúc Luân** (chữ Hán: 阮福㫻, 11 tháng 6 năm 1733 - 24 tháng 10 năm 1765) hay **Nguyễn Phúc Côn**, còn gọi là **Nguyễn Hưng Tổ** (阮興祖), là một Vương tử ở Đàng Trong,
**Nguyễn Hồng Giáp** (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1934) là một nhà giáo, nhà nghiên cứu Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh ngày 21 tháng 9 năm 1934 tại xã Nam Thành, huyện
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
**Johnathan Hạnh Nguyễn** (sinh ngày 27 tháng 5 năm 1951) là một doanh nhân, Chủ tịch tập đoàn Liên Thái Bình Dương (IPP), nguyên là thanh tra tài chính của hãng Boeing Mỹ. Ông là
**Trần Hạnh** (12 tháng 3 năm 1929 – 4 tháng 3 năm 2021) là một nghệ sĩ sân khấu và truyền hình Việt Nam. Ông là Nghệ sĩ Nhân dân nổi tiếng với các vai
Tượng [[Thích-ca Mâu-ni tu khổ hạnh theo phong cách Phật giáo Hy Lạp hóa, khoảng thế kỷ thứ 2–3, Gandhara (nay thuộc miền đông Afghanistan), Bảo tàng Lahore, Pakistan.]] **Phật giáo Nguyên thủy**, còn gọi
**Vạn Hạnh** (chữ Hán: 萬行) (938–1018) là một tăng sĩ Phật giáo Đại Cồ Việt, người châu Cổ Pháp (Bắc Ninh). Ông là một trong những Tăng sĩ làm cố vấn cho vua Lê Đại
**Nguyễn Nhược Bích** (chữ Hán: 阮鄀碧; 1830 – 1909), biểu tự **Lang Hoàn** (嫏嬛), phong hiệu **Tam giai Lễ tần** (三階禮嬪), là một phi tần của vua Tự Đức nhà Nguyễn. Bà nổi tiếng là
**Nguyễn Phú Trọng** (14 tháng 4 năm 1944 – 19 tháng 7 năm 2024) là một chính khách, nhà báo người Việt Nam. Ông từng đảm nhiệm chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyên Hồng** (5 tháng 11 năm 1918 – 2 tháng 5 năm 1982), tên khai sinh **Nguyễn Nguyên Hồng,** là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà
**Đỗ Thị Minh Hạnh** (sinh ngày 13 tháng 03 năm 1985 ở Di Linh, Lâm Đồng) nguyên là sinh viên Cao đẳng Kinh tế, từng tham gia các phong trào công nhân biểu tình và
**Bùi Đức Hạnh** sinh ngày 8 tháng 8 năm 1931 tại Thuỷ Nguyên, Hải Phòng, là nhạc sĩ, nhà nghiên cứu chèo Việt Nam. Ông được phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú và sau
nhỏ|phải|Chùa Xá Lợi, nơi đặt cơ sở đầu tiên của Viện Đại học Vạn Hạnh **Viện Đại học Vạn Hạnh** là viện đại học tư thục ở Sài Gòn do Giáo hội Phật giáo Việt
**Phố Nguyễn Khuyến** (tên thời Pháp thuộc: **Route de Sinh Từ**) là một tuyến phố cổ thuộc phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Theo Nguyễn Vinh Phúc và Trần
**Nguyễn Hữu Ngư** (20 tháng 4 năm 1921 – 18 tháng 2 năm 1979, có các bút hiệu **Nguyễn Ngu Í**, **Nguiễn Hữu Ngư**, **Trịnh Nguiên**, **Tân Fong Hiệb**, **Phạm Hoàn Mĩ**, **Trần Hồng Hưng**,
**Phạm Hữu Nghi** (; 1797 – 1862) tự **Trọng Vũ** (), hiệu **Đạm Trai** (), là một quan viên dưới triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng làm quan qua 3 triều