✨Nguyễn Hữu Tiến (tướng)

Nguyễn Hữu Tiến (tướng)

Nguyễn Hữu Tiến (chữ Hán: 阮有進, 1602-1666), là một danh tướng của chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam.

Thân thế & sự nghiệp

Nguyễn Hữu Tiến sinh năm Nhâm Dần (1602) tại làng Văn Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa (nay là phường Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) biểu danh là Thuận Nghĩa. Sau, ông di cư vào ở huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định.

Đầu quân chúa Nguyễn

Năm Tân Mùi (1631), Nguyễn Hữu Tiến xin vào gặp Nội tán Đào Duy Từ. Nhận thấy ông là người thông minh có chí lớn, nên vị đại thần này đã tiến cử ông lên chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) và gả con gái cho.

Buổi đầu, Nguyễn Hữu Tiến giữ chức đội trưởng trong đội thủy quân, rồi lần trải các chức: cai đội, chưởng cơ, chưởng dinh tiết chế...

Đánh nhau với quân Trịnh

Trong 7 lần quân chúa Trịnh và quân chúa Nguyễn đánh nhau, theo sử liệu thì Nguyễn Hữu Tiến đã cầm quân ra trận 2 lần, đó là vào năm 1648 (lần thứ tư) và năm 1655-1660 (lần thứ 5).

Lần thứ tư (1648)

Tháng giêng năm Mậu Tý (1648), chúa Trịnh Tráng sai tướng đem quân thủy bộ vào đánh vào cửa Nhật Lệ, tiến sát dinh Quảng Bình. Chúa Nguyễn Phúc Lan (tức Chúa Thượng) liền sai con là Thế tử Nguyễn Phúc Tần đem đại binh đi chống giữ.

Sau khi họp bàn và sự nhận sự phân công, vào lúc canh năm (tức từ 3 giờ đến 5 giờ sáng), Nguyễn Hữu Tiến đem khoảng trăm con voi chiến xông thẳng vào dinh quân Trịnh, còn Nguyễn Phúc Tần thì chỉ huy các đạo quân bộ tiến theo sau. Hai bên giáp chiến ác liệt, cuối cùng quân Trịnh bị thua to phải tháo chạy về đất Bắc.

Ngoài số bị giết tại trận, bên chúa Trịnh còn bị bắt sống khoảng 3 vạn quân cùng mấy viên tướng. Trận này, được sử nhà Nguyễn khen là "võ công bậc nhất" của quân Nguyễn trong suốt thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh.

Lần thứ năm (1655-1660)

Năm Ất Tỵ (1655), quân Trịnh lại kéo vào quấy phá Nam Bố Chính. Bấy giờ, chúa Nguyễn Phúc Tần (tức Chúa Hiền) mới quyết ý cho quân qua sông biên giới (tức sông Gianh) đánh đuổi quân Trịnh. Đây là lần đánh nhau lâu nhất (1655-1660) và do quân Nguyễn chủ động tấn công.

Theo sử liệu thì dưới tài chỉ huy của Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến (lúc này đã được phong tước Thuận Nghĩa hầu) và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật, quân Nguyễn đã đánh thắng quân Trịnh nhiều trận ở: Hà Trung, Lạc Xuyên, Tiếp Vũ, Mẫn Tường, Nam Giới, Châu Nhai, Tam Lộng, Đại Nại...Sau các trận này, quân Nguyễn làm chủ được 7 huyện ở phía nam sông Lam.

Tháng 5 năm Đinh Sửu (1657), chúa Trịnh Căn chia quân làm 3 đạo đi tấn công quân Nguyễn ở làng Nam Hoa (thuộc huyện Thanh Chương). Nhờ hay trước, tướng Nguyễn Hữu Tiến đã lập kế đẩy lui được quân Trịnh. Từ đó quân hai bên cứ giữ nhau ở sông Lam, thỉnh thoảng đánh nhau một trận.

Nhưng đến tháng 10 năm Canh Tý (1660), thì quân Nguyễn thua to, vì sự bất hòa giữa Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật. Lược kể theo sách Việt Nam sử lược:

:Sau khi Nguyễn Hữu Tiến biết việc Nguyễn Hữu Dật lẻn về ra mắt chúa Hiền, kể đầu đuôi mọi việc đánh lấy thế nào, trong bụng lấy làm không bằng lòng. Bấy giờ, nhân có những sĩ tốt mới hàng ở đất Nghệ An, thường hay bỏ trốn, Hữu Tiến bèn hội chư tướng lại để bàn xem nên đánh hay là nên lui về. Mọi người đều muốn lui về, duy chỉ có Nguyễn Hữu Dật là không chịu.

:Khi các tướng Nguyễn đang bàn bạc, thì có tin rằng Trịnh Căn đã tiến quân đánh ở làng An Điền và ở làng Phù Lưu, quân Nguyễn thua. Được tin ấy Nguyễn Hữu Tiến quyết ý đem quân về, nhưng bề ngoài giả tảng truyền lện cho các tướng rằng đến tối 28 thì các đạo đều phải tiến sang đánh An Tràng, Nguyễn Hữu Dật đem binh đi hậu tiếp. Đoạn rồi, dặn riêng các tướng đến nữa đêm rút quân về Nam Bố Chính, không cho Nguyễn Hữu Dật biết. Nguyễn Hữu Dật sắm sửa đâu vào đấy, chờ mãi không có tin tức gì, đến khi cho người đi thám về nói mới biết quân mình đã rút về Nam rồi. Lúc ấy quân họ Trịnh đã sang sông đến đánh đồn Khu Độc. Hữu Dật mới dùng kế nghi binh để cho quân Trịnh không dám tiến lên, rồi đem binh chạy về, đến Hoành Sơn mới gặp quân của Nguyễn Hữu Tiến. Khi ấy, quân Trịnh Căn vừa đuổi đến, hai bên đánh nhau một trận chết hại rất nhiều...

:Sau trận này, Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nhật Lệ, Nguyễn Hữu Dật đóng ở Đông Cao, giữ các chỗ hiểm yếu. Từ bấy giờ 7 huyện ở vùng sông Lam lại thuộc về Đàng Ngoài.

Qua đời

Tháng 6 năm Giáp Thìn (1664), Nguyễn Hữu Tiến ốm nặng, đến tháng 7 năm Bính Ngọ (1666) thì qua đời tại quân thứ, được triều đình truy tặng tước Tiết chế Thuận Quận công. Đời vua Gia Long, ông được thờ trong Thái Miếu. Đến đời vua Minh Mạng, ông được truy tặng tước Anh Quốc công và được thờ trong Võ Miếu.

Người đời sau có thơ bình tán Thuận Nghĩa như sau:               

Nghiệp dựng trời cao sáng đẩu tinh,

Vua tôi gặp gỡ đất Nam Thành.                                       

Văn thần thao lược bày rồng hổ,

Võ tướng xông pha mạnh giáp binh.                           

Thu hết càn khôn khoe tuấn kiệt,

Tung hoành bốn biển rạng uy linh.

Bảo đao sáng suốt oai thần vũ,

Thuận Nghĩa danh lừng thật hiển vinh.

Trong sách Quốc triều tiền biên toát yếu có đoạn khen ngợi ông, lược trích như sau: :(Nguyễn Hữu) Tiến nhiều lần lập chiến công, được Ngài (Chúa Hiền) khen là Hổ tướng, còn người Bắc Hà thì gọi ông là Hổ Uy đại tướng. Ông cùng với Nguyễn Hữu Dật đều là Công thần khai quốc.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Hữu Tiến** (chữ Hán: 阮有進, 1602-1666), là một danh tướng của chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế & sự nghiệp **Nguyễn Hữu Tiến** sinh năm Nhâm Dần
**Nguyễn Hữu Tiến** (阮有進, 1875-1941), hiệu **Đông Châu** (東洲). là một nhà nghiên cứu cộng tác đắc lực với tạp chí Nam Phong. Quê ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay
nhỏ|Nguyễn Hữu Tiến **Nguyễn Hữu Tiến** (1901–1941), tên khai sinh **Trương Xuân Trinh**, còn gọi là "Thầy giáo Hoài" hay "Hải Đông", Xứ ủy viên Nam Kỳ là nhà cách mạng và là Đảng viên
**Nguyễn Hữu Hào** (chữ Hán: 阮有豪, 1642 - 1713) là một tỳ tướng của chúa Nguyễn. Ngoài vai trò cầm quân, ông còn là thi sĩ với tác phẩm _Song Tinh bất dạ_ và một
**Nguyễn Hữu Hùng** (26 tháng 7 năm 1970 - 13 tháng 10 năm 2020) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thiếu tướng. Tại thời điểm gặp nạn, ông giữ
**Nguyễn Hữu Dật** (chữ Hán: 阮有鎰, 1603–1681) là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều
**Nguyễn Hữu Dánh** tại (xã Tiến Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình) là tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông nguyên là Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát giao
**Nguyễn Hữu Tần** (1930-2008), nguyên là một tướng lĩnh Không Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan do Chính phủ Quốc gia được
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**Nguyễn Hữu Liêu** (阮有僚, 1532-1597) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là người làng Tây Đam, nay là xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông
**Nguyễn Hữu Cầu** (1879-1946), hiệu **Giản Thạch**, thường được gọi "Ông Cử Đông Tác" là một nhà nho tiến bộ, đồng sáng lập viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục (viết tắt ĐKNT) năm 1907 tại
**Nguyễn Hữu Huân** (chữ Hán 阮有勳, 1830-1875) là một sĩ phu yêu nước và là một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19.
**Nguyễn Hữu Cầu** (chữ Hán: 阮有求; 1712 – tháng 3 1751) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ 18. ## Xuất thân Ông là người xã
Thượng tướng, Phó Giáo sư **Nguyễn Hữu An** (1926-1995) là một tướng lĩnh quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông tham gia Kháng chiến chống Pháp, Kháng chiến chống
**Nguyễn Hữu Hạnh** (26 tháng 8 năm 1924 – 29 tháng 9 năm 2019) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng, tình báo viên
**Nguyễn Hữu Có** (1925 – 2012) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Võ
**Nguyễn Đức Trung** (阮德忠, 1404 - 1477) là một công thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam. Đồng thời ông là ngoại
**Nguyễn Hữu Tuệ** (1871-1938), tên thường gọi là **Lý Tuệ**, là người tham gia tích cực trong các hoạt động xuất dương của phong trào Đông Du và hội Duy Tân. Những đóng góp của
**Nguyễn Hữu Thận** (chữ Hán: 阮有慎; 01 tháng 3, 1757- 12 tháng 8, 1831), tự **Chân Nguyên**, hiệu **Ý Trai** (hoặc **Ức Trai**, chữ Hán: 意齋); là nhà toán học và nhà thiên văn học,
**Nguyễn Hữu Trí** (1903 – 1954) là nhà chính trị Việt Nam, nguyên Thủ hiến Bắc phần của chính thể Quốc gia Việt Nam thập niên 1950. Nguyễn Hữu Trí đồng thời là Tổng bí
**Nguyễn Hữu Đang** (1913–2007) là một nhà báo, từng bị thực dân Pháp bắt tù 1930, cũng từng là thứ trưởng Bộ Thanh Niên, tham gia Mặt Trận Dân chủ Đông Dương (1937–1939), một trong
**Vụ ấu dâm Nguyễn Hữu Linh** xảy ra vào tháng 4 năm 2019, là vụ việc ông Nguyễn Hữu Linh sàm sỡ một bé gái khoảng 7 tuổi trong thang máy chung cư Galaxy 9
**Nguyễn Hữu Cầu** (sinh ngày 20 tháng 11 năm 1962 tại xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân
**Nguyễn Hữu Xuyến** (1917–2007), bí danh **Tám Xuyến**, **Tám Kiến Quốc**, là một vị tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam mang quân hàm Trung tướng, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh
**Nguyễn Hữu Tảo** (1900-1966), là một nhà giáo Việt Nam trong thế kỉ 20, người đặt nền móng cho bộ môn Tâm lý - Giáo dục học Việt Nam. Ông cũng là thầy dạy của
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
**Nguyễn Hữu Cơ** (Hán tự: 阮有機; 1804-?) là một danh sĩ và đại thần triều Nguyễn. Ông đỗ Đình nguyên Hoàng giáp khoa thi Hội năm Ất Mùi 1835, quan trường đến chức Tổng đốc
**Nguyễn Huân** (1926 – 2017) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương từ năm 1981 đến 1993.
## Tiểu sử Thiếu tướng Nguyễn Hữu Vị, tên thường gọi: Tám Vị Ông sinh năm 1930, qua đời ngày 12 tháng 12 năm 2018, hưởng thọ 89 tuổi. Ông nguyên là Ủy viên Ban
**Nguyễn Hữu Thọ** (10 tháng 7 năm 1910 – 24 tháng 12 năm 1996) là một luật sư, nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông là Phó Chủ tịch nước Việt Nam sau
**Nguyễn Hữu Chiến Thắng** (sinh ngày 15 tháng 6 năm 1973 tại Hà Nội) là một người dẫn chương trình Việt Nam. Anh được biết đến với chất giọng trầm khàn đầy truyền cảm, đặc
**Nguyễn Hữu Lê** (1926 – 29 tháng 12 năm 2022) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 1. ## Cuộc
**Nguyễn Hữu Trí** (1926-1993) là một Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thứ hai của lực lượng Tình báo Quốc phòng, nguyên quyền trưởng phòng
**Nguyễn Hữu Lập**, tự **Nọa Phu**, hiệu **Thiếu Tô Lâm tiên sinh**, quê ở làng Trung Cần, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Ông sinh ra trong một gia đình có truyền
**Nguyễn Hữu Thắng** (sinh ngày 22 tháng 6 năm 1980) là một cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Thời còn thi đấu, ông chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ
**Nguyễn Hữu Nghiêm** (chữ Hán: 阮有嚴, 1491 – tháng 1 năm 1525), người xã Thọ Khê (còn gọi là Phúc Khê, tên tục gọi là Làng Nét), huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh
**Nguyễn Hữu Châu** (? – ?) là luật sư và chính khách Việt Nam Cộng hòa, ## Tiểu sử Nguyễn Hữu Châu quê ở tỉnh Gò Công (nay là tỉnh Tiền Giang), Nam Kỳ, Liên
Ông **Nguyễn Viết Tiến** (sinh năm 1959) là một Giáo sư, Tiến sĩ Y khoa và chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Y tế. ##
**Nguyễn Mạnh Tiến** (sinh năm 1966) là tiến sĩ kinh tế và chính trị gia người Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII chuyên trách trung ương, khóa XIV chuyên
**Nguyễn Hữu Kim Sơn** (sinh ngày 15 tháng 3 năm 2002) là một nam vận động viên thuộc đội tuyển bơi lội quốc gia Việt Nam. Được mệnh danh là "thần đồng bơi lội" của
**Nguyễn Hữu Chí** (sinh 1960) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, hiện là Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân. ## Thân
**Nguyễn Hữu Tuấn** (sinh ngày 12 tháng 8 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện đang chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Phú Thọ. ## Sự
**Nguyễn Hữu Độ** (sinh năm 1962) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. ## Xuất thân Ông sinh ngày 29 tháng
**Nguyễn Hữu Tiếp** (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1958) là một Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam, ông hiện đang là Phó Chánh Thanh tra Bộ Công an, chuyên ngành bảo vệ
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong