✨Tư Mã Đạo Tử

Tư Mã Đạo Tử

Tư Mã Đạo Tử (chữ Hán: 司馬道子, 364 - 3 tháng 2 năm 403), tự là Đạo Tử (道子), là tông thất và đại thần dưới thời nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Xuất thân là hoàng tử của Tấn Giản Văn Đế, Tư Mã Đạo Tử được ban tước hiệu Lang Nha vương và sau đó là Cối Kê vương. Dưới thời anh trai Tấn Hiếu Vũ Đế, Tư Mã Đạo Tử lần lượt đảm nhận các chức vụ quan trọng trong triều đình như Hội Kê nội sử, Tán kị thường thị, Trung quân tướng quân, Phiêu kị tướng quân, Tư đồ, Lục thượng thư sự, thứ sử Dương châu, Giả tiết, Đô đốc trung ngoại chư quân sự... rồi Từ châu thứ sử, Thái tử thái phó... Sang đời cháu là Tấn An Đế, Tư Mã Đạo Tử nắm quyền nhiếp chính trong triều. Trong thời gian nhiếp chính, ông thường say xỉn liên miên và tin dùng gian thần, làm cho triều chính hủ bại, kết quả dẫn đến hai cuộc binh biến trong cung thất vào các năm 397 và 398, cuối cùng quyền lực lọt vào tay người con trai của ông, Tư Mã Nguyên Hiển. Đến năm 403, quân nổi loạn do Hoàn Huyền tiến vào chiếm được kinh thành Kiến Khang, Hoàn Huyền ra lệnh sát hại Tư Mã Nguyên Hiển và đày Tư Mã Đạo Tử sang quận An Thành, sau cùng ông bị thủ hạ là Đỗ Trúc Lâm đầu độc chết, thọ 39 tuổi. Sau này khi Hoàn Huyền bị dẹp tan, triều đình nhà Tấn quyết định phục hồi danh dự cho Tư Mã Đạo Tử, truy tôn ông làm Thừa tướng và ban thụy hiệu là Cối Kê Văn Hiếu vương (會稽文孝王).

Sớm nắm quyền lớn

Tư Mã Đạo Tử nguyên là con trai út của Tấn Giản Văn Đế Tư Mã Dục, vua thứ 12 của nhà Tấn, em trai của Tấn Hiếu Vũ Đế, vua thứ 13 của nhà Tấn. Do những người anh trước đó của ông đều mất sớm, nên Tư Mã Dục, lúc đó đang mang tước hiệu Cối Kê vương đã lấy tì nữ Lý Lăng Dung làm thiếp. Lý Lăng Dung hạ sinh Tư Mã Diệu (Tức Tấn Hiếu Vũ Đế) vào năm 363 và sang năm 364 thì hạ sinh Tư Mã Đạo Tử.

Năm 371, Tư Mã Dục được Hoàn Ôn lập làm vua, tức là Tấn Giản Văn Đế, Tư Mã Đạo Tử trở thành hoàng tử. Đến tháng 7 ÂL năm 372 (tức 12 tháng 9), Tư Mã Đạo Tử được ban tước hiệu Lang Nha vương và đồng thời được lãnh chức Cối Kê sử, trông coi công việc ở Cối Kê quốc.

Cùng năm 372, Tấn Giản Văn Đế băng hà, Tư Mã Diệu nối ngôi, trở thành Tấn Hiếu Vũ Đế. Những năm đầu thời Hiếu Vũ Đế, Tư Mã Đạo Tử được phong chức Tán kị thường thị và Trung quân tướng quân, sau được thăng làm Phiêu kị tướng quân. Sang tháng 6 năm 380, ông được mở phủ đệ và lĩnh chức Tư Đồ.

Tháng 9 năm 383, Tư Mã Đạo Tử được phong chức Lục thượng thư điều sự. Như vậy, trong vòng hơn 10 năm từ 372 đến 383, Tư Mã Đạo Tử liên tục được thăng chức và dần nắm được quyền lực trong triều. Vào thời điểm đó, ông chỉ khoảng 20 tuổi. Nắm được nhiều quyền hành, Tư Mã Đạo Tử được nhiều người kính phục và đi theo. Do anh vợ của Vương Quốc Bảo có hiềm khích với cha vợ là Tạ An vì Tạ An không đề bạt mình, nên bỏ theo Tư Mã Đạo Tử và gièm pha Tạ An với ông. Cuối cùng Đạo Tử biếm chức Tạ An, đày đi khỏi trấn.

Năm 385, Tạ An qua đời. Từ lúc này, Tư Mã Đạo Tử trở thành vị quan tối cao trong triều đình, được phong lên chức Thứ sử Dương châu, Lục Thượng thư sự, Giả tiết, Đô đốc trung ngoại chư quân sự. Các văn thần võ tướng dưới quyền Tạ An đều chuyển sang phục vụ Tư Mã Đạo Tử. Sang năm 387, ông lại được phong thêm chức Thứ sử Từ châu và làm Thái phó cho thái tử.

Mâu thuẫn với vua anh

Tư Mã Đạo Tử rất ham mê tửu sắc, y hệt vua anh của mình. Nhiều đều ông cùng Tấn Hiếu Vũ Đế thườnh uống rượu xem hát với nhau. Đến cuối thời Hiếu Vũ Đế, quyền lực của Tư Mã Đạo Tử đã lớn mạnh, lấn át đến vua. Ông thân cận tăng ni và tin dùng tiểu nhân quá mức. Nhiều tên sủng thần của Tư Mã Đạo Tử nhân chủ nhân có quyền lực, bèn giở trò mua quan bán tước, làm chính trị, hình luật hỗn loạn, cộng thêm việc ông quá tôn sùng Phật giáo, bắt người dân nộp nhiều tiền của xây đền chùa, làm nhiều người căm phẫn. Trung thư lang Phạm Ninh cũng bất bình, bèn báo chuyện này lại với Tấn Hiếu Vũ Đế, khiến hoàng đế bất mãn với Tư Mã Đạo Tử, tuy nhiên chưa biểu lộ ra ngoài. Về sau, Vương Quốc Bảo ghét Phạm Ninh, bèn bảo Tư Mã Đạo Tử tìm cớ vu khống và khuyên hoàng đế biếm truất Ninh. Phạm Ninh cuối cùng bị đầy làm Thái thủ Dự Chương. Tiếp theo, lại có người do hối lộ cho tả hữu của Tư Mã Đạo Tử là Triệu Nha và Nhữ Thiên Thu để dễ dàng ăn bớt vật tư hay mua quan bán tước.

Tư Mã Đạo Tử được mẹ là Lý Lăng Dung che chở, thường mỗi khi uống rượu lại nói lời vô lễ với Hiếu Vũ Đế. Hiếu Vũ Đế cũng biết Tư Mã Đạo Tử không phải năng thần trị quốc. Sau đó lại xảy ra việc Vương Quốc Bảo bất hòa với Vương Nhã, thân cận của Hiếu Vũ Đế. Hiếu Vũ Đế bèn tìm cách hạn chế quyền lực của Đạo Tử, dùng ngoại thích Vương Cung làm thứ sử hai châu Thanh, Duyện; Ân Trọng Kham làm đô đốc quân sự ba châu Kinh, Ninh, Ích; Thứ sử Kinh châu, Sĩ Khôi làm thứ sử Ung châu, tạo thế lực ở bên ngoài nhằm trấn áp Tư Mã Đạo Tử. Đồng thời, hoàng đế càng tín nhiệm Vương Nhã. Tư Mã Đạo Tử cũng không chịu thua kém, liền thăng Vương Quốc Bảo làm Trung thư lệnh, Trung lĩnh quân, và thu dụ em họ là Vương Tự. Mẫu thuẫn với Tấn Hiếu Vũ Đế và Tư Mã Đạo Tử bùng nổ và ngày càng quyết liệt.

Năm 392, Tấn Hiếu Vũ Đế lập con nhỏ là Tư Mã Đức Văn làm Lang Nha vương, dời Tư Mã Đạo Tử làm Cối Kê vương, thực chất là nhằm tước bớt phong địa của ông Tuy nhiên về sau do sự can thiệp của Lý Thái hậu nên Hiếu Vũ Đế không loại bỏ Tư Mã Đạo Tử.

Dẹp loạn Vương Cung

Năm 396, Tấn Hiếu Vũ Đế bị Trương Quý nhân giết chết. Thái tử Tư Mã Đức Tông lên kế vị, xưng là Tấn An Đế. An Đế nhỏ tuổi lại bị dị tật, không thể nói được nên Tư Mã Đạo Tử nắm quyền mọi quyền lực trong ngoài, được thăng lên chức Thái phó, Dương châu mục. Ông lại cho trục xuất Vương Nhã khỏi triều đường và dùng Vương Quốc Bảo và Vương Tự, quản lý triều chính.

Thấy Vương Quốc Bảo bất tài được trong dụng, thứ sử hai Thanh, Duyện là Vương Cung không bằng lòng, thường dâng lời khuyên gián, làm Tư Mã Đạo Tử ghét. Sang năm 397, Vương Cung liên kết cùng Ân Trọng Kham thảo phạt Vương Quốc Bảo. Tư Mã Đạo Tử lo sợ, bèn quyết tâm hi sinh Quốc Bảo, sai Tư Mã Thượng Chi tịch thu ấn quan của Quốc Bảo, rồi ép Quốc Bảo tự tử và giết chết Vương Tự. Vương Cung mới rút về Kinh Khẩu.

Tư Mã Đạo Tử bất bình với hành động của Vương Cung, bèn nghe theo lời của Tư Mã Thượng Chi, quyết định tăng cường quyền lực của Thừa tướng (tức chính Đạo Tử) và phái Tư mã Vương Du của mình làm Giang Châu thứ sử, cắt 4 quận thuộc Dự Châu của Dữu Giai giao cho Du. Dữu Gia tức giận, sai con trai là Hồng đưa thư khuyên Cung cất quân tiêu diệt Tư Mã Thượng Chi.

Năm 398, Vương Cung liên kết với Dữu Giai, Hoàn Huyền và Ân Trọng Kham tiến quân về Kiến Khang nhằm tiêu diệt Vương Du và Tư Mã Thượng Chi. Tư Mã Đạo Tử phong cho con là Tư Mã Nguyên Hiển làm Chinh thảo đô đốc, cùng Tạ Diễm đưa quân chống trả, đồng thời sai Tư Mã Thượng Chi thảo phạt Dữu Giai. Giai bỏ trốn theo Hoàn Huyền.

Trong lúc đó, Tư Mã Nguyên Hiển dùng kế thuyết phục tướng dưới quyền của Vương Cung là Lưu Lao Chi, cuối cùng ông ta chấp nhận đầu hàng và đưa quân bắt được Vương Cung. Tư Mã Đạo Tử nghe được, muốn gặp mặt để chế giễu, nghe tin bọn Hoàn Huyền đã đến Thạch Đầu, vội xử chém ông ở Nghê Đường, Kiến Khang.

Tuy Vương Cung bị diệt nhưng thế lực của Hoàn Huyền, Ân Trọng Kham vẫn còn. Tả vệ tướng quân Hoàn Tu hiến kế nên gây hiền khích giữa Ân Trọng Kham với Hoàn Huyền và Dương Thuyên Kì. Đạo Tử nghe theo, bèn phong Hoàn Huyền là Thứ sử Giang châu, Ung châu, biếm Ân Trọng Kham làm Thứ sử Quảng châu. Về sau, Ân Trọng Kham rút quân, mối đe dọa đối với triều đình được hóa giải.

Mất quyền lực

Từ sau khi dẹp được Vương Cung, Tư Mã Đạo Tử ngày càng tin tưởng Tư Mã Nguyên Hiển, giao quân quyền cho Nguyên Hiển còn mình thì suôt ngày say sưa. Năm 398, do nghi có mưu đồ phản nghịch, Tư Mã Đạo Tử lệnh cho Tư Mã Nguyên Hiển bắt giữ và hành quyết Tôn Thái. Cháu trai của Tôn Thái, Tôn Ân chạy trốn đến đảo Chu San và lập kế hoạch phục thù.

Tư Mã Nguyên Hiển thấy cha mình không lo việc triều chính bèn nảy sinh ý định đoạt lấy quyền lực. Năm 399, nhân Tư Mã Đạo Tử bị bệnh và tiếp tục say xỉn suốt ngày, Tư Mã Nguyên Hiển bèn tự phong cho mình chức Dương Châu thứ sử và lợi dụng hoàng đế để đoạt lấy quyền chấp chính. Tư Mã Đạo Tử khi biết được việc này, rất tức giận, song không thể phản kháng. Đương thời, tuy vẫn là người nhiếp chính trên danh nghĩa, nhưng Tư Mã Đạo Tử thường uống rượu suốt ngày, còn hoàng đế thì bị dị tật không thể nói được nên mọi việc trong triều đều do Tư Mã Nguyên Hiển quyết đoán. Nguyên Hiển được tôn xưng là Tây lục, trong khi Tư Mã Đạo Tử được gọi là Đông lục. Từ thời điểm đó, Tư Mã Nguyên Hiển đoạt được quyền điều hành triều chính.

Đương thời Lại bộ thượng thư Xa Dận bất mãn việc Tư Mã Nguyên Hiển kiêu ngạo làm bại hoại triều đình, bèn đến gặp Tư Mã Đạo Tử, khuyên Tư Mã Đạo Tử nên tìm cách lấy lại quyền lực. Tư Mã Nguyên Hiển biết chuyện, đến hỏi Tư Mã Đạo Tử, rồi lấy việc Xa Dận li gián mình với cha, bức Xa Dận tự sát.

Qua đời

Từ sau khi mất quyền lực, Tư Mã Đạo Tử lại tiếp tục lún sâu vào con đường nghiệp ngập và không còn thiết gì đến việc triều chính. Trong khi đó, Tư Mã Nguyên Hiển bắt đầu thực hiện kế hoạch diệt trừ các thế lực địa phương, trong đó có Hoàn Huyền ở Kinh Khẩu. Năm 401, Tư Mã Nguyên Hiển cùng Lưu Lao Chi dẫn quân tiến đánh Hoàn Huyền, không may thất bại. Hoàn Huyền nhân đó tiến quân vào thành Kiến Khang. Lưu Lao Chi bỏ sang đầu hàng Hoàn Huyền. Trước tình thế sắp thua cuộc, Tư Mã Nguyên Hiển đến cầu cứu Tư Mã Đạo Tử nhưng ông cũng không còn kế sách gì, chỉ biết khóc mà thôi.

Hoàn Huyền nhanh chóng chiếm được thành Kiến Khang vào năm 402. Ông ta sát hại Tư Mã Nguyên Hiển cùng các đại thần là Đông Hải vương Tư Mã Ngạn Chương (con của Nguyên Hiển), Quan Quân tướng quân Mao Thái và Du kích tướng quân Mao Thúy, còn Tư Mã Đạo Tử bị đày sang An Thành. Từ đó triều đình nhà Tấn rơi vào tay Hoàn Huyền.

Đến ngày Canh Thân tháng 12 cùng năm (tức 3 tháng 2 năm 403), Tư Mã Đạo Tử bị thủ hạ cũ là Ngự sử Đỗ Trúc Lâm dùng thuốc độc giết chết theo lệnh của Hoàn Huyền. Năm đó ông được 39 tuổi. Tấn An Đế nghe tin thúc phụ qua đời, thân hành đến Tây Đường khóc tang ba ngày.

Hậu sự

Hoàn Huyền về sau cướp ngôi nhà Tấn, lập ra nhà Sở rồi bị đánh bại và bị giết chết. Triều đình nhà Tấn khi ấy quyết định phục hồi danh dự cho Tư Mã Đạo Tử, truy tôn là Thái phó, Thừa tướng; còn Tư Mã Nguyên Hiển được truy phong làm Thái úy. Đến năm 405, triều đình lại xuống chiếu truy tôn thụy hiệu cho ông là Cối Kê Văn Hiếu vương, và cho hợp táng cùng với Cối Kê vương phi; Tư Mã Nguyên Hiển cũng được truy tặng thụy là Cối Kê Trung thế tử; đồng thời cử người trong tôn thất là Tư Mã Tu Chi đến kế thừa tước vị Cối Kê vương.

Về sau có người tự xưng là con trai thứ của Tư Mã Nguyên Hiển tên là Tú Hi. Cối Kê Thái phi thấy thế bèn xin rước Tú Hi về để lập làm Cối Kê vương và cho chuyển Tu Chi đi nơi khác. Tuy nhiên Lưu Dụ (người kiểm soát triều chính) phát hiện ra chỉ là người nô bộc giả danh bèn giết chết. Tư Mã Tú Chi về sau mất, thụy là Cối Kê Điệu vương, không có con nối dòng, nước bị trừ.

Gia quyến

Cha: Tấn Giản Văn Đế Tư Mã Dục Mẹ: Thái phi Lý Lăng Dung Anh chị Tư Mã Đạo Sinh (anh) Tư Mã Du Sinh (anh) Tư Mã Úc (anh) Tư Mã Chu Sinh (anh) Tư Mã Thiên Lưu (anh) Tấn Hiếu Vũ Đế Tư Mã Diệu (anh) Bà Dương công chúa (em gái) Tân An công chúa (em gái) Vũ Xương công chúa (em gái) Tầm Dương công chúa (em gái) Con cái Tư Mã Nguyên Hiển, tức Cối Kê Trung thế tử, người được Tư Mã Đạo Tử lập làm thế tử kế vị, làm quan đến chức Phiêu kị tướng quân, sau bị sát hại *Cháu Tư Mã Ngạn Chương, con Tư Mã Nguyên Hiển được phong tước vị Đông Hải vương, sau bị giết cùng với Tư Mã Nguyên Hiển Tư Mã Tú Hi, tự xưng là con của Tư Mã Nguyên Hiển, bị Lưu Dụ giết chết *Tư Mã Thiên Trợ, tự xưng là con của Tư Mã Nguyên Hiển, sau này trốn sang nhà Bắc Ngụy, được Bắc Ngụy phong làm Đông Hải công, Thị trung, Thứ sử các châu Thanh, Duyện, Chinh Đông tướng quân Tư Mã Nguyên Bá, chắt, con Tư Mã Thiên Trợ, được Bắc Ngụy phong làm Kiến Uy tướng quân, Thái thú Thái Sơn

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tư Mã Đạo Tử** (chữ Hán: 司馬道子, 364 - 3 tháng 2 năm 403), tự là **Đạo Tử** (道子), là tông thất và đại thần dưới thời nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Xuất
**Đạo giáo** (tiếng Trung: 道教) (_Đạo_ nghĩa là con đường, đường đi, _giáo_ là sự dạy dỗ) hay gọi là _Tiên Đạo_, là một nhánh triết học và tôn giáo của Trung Quốc, được xem
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Đạo** là một khái niệm cốt lõi trong tư tưởng triết học và tôn giáo Đông Á, là con đường tự nhiên của vũ trụ, là cơ chế vận hành và biến hóa của trời
**Hội Nữ Hướng đạo Mỹ** (_Girl Scouts of the United States of America_) là một tổ chức thanh thiếu niên dành cho nữ tại Hoa Kỳ và các bé gái sống ở hải ngoại. Chương
**Hướng đạo** (tiếng Anh: _Scouting_), hay còn được biết với tên là **Phong trào Hướng đạo** (tiếng Anh: _Scout Movement)_, là một phong trào thanh thiếu niên có phạm vi toàn cầu với mục đích
**Cuộc chinh phục Hispania của La Mã** là một quá trình được bắt đầu bằng việc Cộng hòa La Mã chiếm giữ các vùng đất của người Carthage ở phía nam và phía đông vào
|} Mặt Trăng quay quanh Trái Đất theo hướng cùng chiều với chiều quay Trái Đất và hoàn thành một chu kỳ quỹ đạo khi so sánh với các ngôi sao cố định trong khoảng
**Trang Tử** (chữ Hán: 莊子; 369—286 TCN), có tên là **Mông Lại** (蒙吏), **Mông Trang** (蒙莊) hay **Mông Tẩu** (蒙叟), là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là **Trang
nhỏ|Cáo buộc với bức chân dung của một thượng nghị sĩ Venice (Allegory về đạo đức của những thứ trên trần gian) do [[Tintoretto vẽ năm 1585.]] **Đạo đức** là một từ Hán-Việt, được dùng
Ở động vật có vú, **âm đạo** (tiếng Latinh: _vagina_, tiếng Hy Lạp: _kolpos_) là phần ống cơ, đàn hồi của đường sinh dục nữ. Ở người, âm đạo kéo dài từ tiền đình đến
**Cộng hòa Guinea Xích Đạo** (phiên âm tiếng Việt: **Ghi-nê Xích Đạo**; tiếng Tây Ban Nha: _República de Guinea Ecuatorial_) là một quốc gia nằm ở bờ biển phía tây của Trung Phi, với diện
nhỏ|Chân dung [[Chủ tịch Hồ Chí Minh]] **Tư tưởng Hồ Chí Minh** là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng
Phật giáo **Tứ Ân Hiếu Nghĩa** (四恩孝義), tên cũ là Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, gọi tắt là đạo **Hiếu Nghĩa**, do Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là **Đức Bổn Sư**) sáng lập.
**_Hoài Nam tử_** (淮南子), tựa đề gốc là **_Hồng Liệt_** (鴻烈), là một tác phẩm cổ điển của Trung Quốc thời Tây Hán, được Hoài Nam vương Lưu An cùng các học giả dưới trướng
**Thanh Tuyên Tông** (chữ Hán: 清宣宗, 16 tháng 9 năm 1782 – 26 tháng 2 năm 1850), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ 8 của triều đại
Trương Đạo Lăng, người sáng lập tông phái **Thiên sư Đạo** (chữ Hán: 天师道), còn gọi là **Ngũ Đấu Mễ Đạo** (五斗米道, nghĩa là "đạo Năm Đấu Gạo"), **Chính Nhất Đạo** (正一道), **Chính Nhất Minh
**Tư Mã Nguyên Hiển** (chữ Hán: 司馬元顯, 382 - 402), tức **Cối Kê Trung thế tử**, tên tự là **Lãng Quân** (朗君), là tông thất và đại thần chấp chính dưới thời Đông Tấn trong
**Đạo đức với việc ăn thịt động vật** là chủ đề tranh cãi chưa có hồi kết về vấn đề đạo đức và việc ăn thịt động vật, và vấn đề có đạo đức hay
**Vụ xét xử các lãnh đạo Đảng Cộng sản theo Đạo luật Smith** ở thành phố New York từ năm 1949 đến năm 1958 là kết quả các cuộc truy tố của chính quyền liên
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
Tượng Pháp Vũ tại [[chùa Keo (Hà Nội)]] Tượng Pháp Vân, ở [[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] **Tứ Pháp** (Chữ Hán: 四法) là các vị Phật - Bồ Tát có nguồn gốc từ các nữ thần
nhỏ| được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức **trà** trong văn hóa Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12. Theo truyền thuyết của Nhật Bản, vào
[[Hướng đạo sinh đến từ nhiều quốc gia hát ở Trại Họp bạn Hướng đạo Thế giới năm 2005]] Một **thiếu sinh Hướng đạo** hay **nam Hướng đạo sinh** (_Boy Scout_) là một cậu bé
**_Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản_** (_Die protestantische Ethik und der 'Geist' des Kapitalismus_) là tác phẩm nổi tiếng nhất và hay được bàn đến của nhà kinh
phải|Biểu tượng của thần đạo được thế giới biết đến nhỏ|phải|Một thần xã nhỏ **Thần đạo** (tiếng Nhật: 神道 _Shintō_) là tín ngưỡng tôn giáo truyền thống chủ yếu của người Nhật Bản. ## Tín
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Tứ Xuyên** () là một tỉnh nằm ở tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh lị của Tứ Xuyên là Thành Đô, một trung tâm kinh tế trọng yếu của miền Tây
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
**Ương-quật-ma-la** (, , nghĩa đen: “dây chuyền ngón tay”, hay còn được biết là **Vô Não** hay **Trưởng lão Chỉ Man**) là một nhân vật quan trọng trong Phật giáo, đặc biệt là trong truyền
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
** Đoan Mộc Tứ ** (; 520–459 TCN),, người Hoa Hạ, họ Đoan Mộc, sống vào thời kỳ cuối Xuân Thu , người nước Vệ (huyện Tuấn, Hạc Bích, tỉnh Hà Nam), tự ** Tử
Trong triết lý phát triển hay đạo đức, chính trị và đạo đức sinh học, **tự chủ** là khả năng đưa ra quyết định sáng suốt, không bị ép buộc. Tổ chức hoặc các thiết
là một trong những trường phái triết học quan trọng nhất trong thời kỳ bách gia chư tử của Trung Quốc. Những nhân vật đặt nền móng cho trường phái này là Lão Tử, Trang
**Nhân cách người lãnh đạo** là tổ hợp những đặc điểm, phẩm chất tâm lý của cá nhân người lãnh đạo, quy định hành vi xã hội, giá trị xã hội và bản sắc của
nhỏ|Hai vệ tinh của Sao Hỏa quay quanh nó.**Chu kỳ quỹ đạo** là thời gian mà một thiên thể hoàn thành một vòng quỹ đạo quanh thiên thể trung tâm. Trong thiên văn học, nó
**Tự Lực văn đoàn** (chữ Hán: , tiếng Pháp: ) là tổ chức văn học mang tính hội đoàn, một nhóm nhà văn đã tạo nên một trường phái văn học, một phong trào cách
**Đạo giáo Việt Nam** là Đạo Giáo đã được bản địa hóa khi du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam. Đạo giáo Việt Nam là một trong ba tôn giáo phổ biến nhất ở
**Nhị thập bát tú** là một thuật ngữ trong thiên văn học phương Đông cổ đại, chỉ 28 chòm sao nằm gần hoàng đạo và xích đạo thiên cầu. Đây là một phần quan trọng
**Bách Gia Chư Tử** (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm
**Hội Hướng đạo** (_The Scout Association_) là tên gọi chính thức của một hội Hướng đạo tại Vương quốc Anh được Tổ chức Phong trào Hướng đạo Thế giới công nhận. Hướng đạo bắt đầu
**Vụ ném bom nguyên tử Hiroshima và Nagasaki** là sự kiện hai quả bom nguyên tử được Quân đội Hoa Kỳ, theo lệnh của Tổng thống Harry S Truman, sử dụng trong Chiến tranh thế
**Đạo luật Mậu Dần** là một văn bản luật Đạo quan trọng của Cao Đài giáo được ban hành vào ngày 15 tháng Giêng năm Mậu Dần (dl 14 tháng 2 năm 1938). Văn bản
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng** (Tiếng Trung Quốc: **西藏自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Xī Zàng Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, Từ Hán - Việt: _Tây Tạng tự trị Khu Nhân
phải|Mỗi phần tử của một ma trận thường được ký hiệu bằng một biến với hai chỉ số ở dưới. Ví dụ, a2,1 biểu diễn phần tử ở hàng thứ hai và cột thứ nhất
nhỏ|Quỹ đạo địa tĩnh. Trong hình, chấm tròn nhỏ màu xanh chuyển động trên đường tròn quỹ đạo quanh Trái Đất là một vệ tinh địa tĩnh, chấm tròn màu nâu trên bề mặt Trái
**Hướng đạo Việt Nam** là một tổ chức thanh thiếu niên được thành lập vào năm 1931 bởi Huynh trưởng Hoàng Đạo Thúy tại Hà Nội. Hướng đạo Việt Nam trước đây từng là một