✨Từ Hán-Việt

Từ Hán-Việt

Từ Hán Việt là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách ghép các từ và/hoặc ngữ tố tiếng Việt gốc Hán lại với nhau. Từ Hán Việt là một bộ phận không nhỏ của tiếng Việt, có vai trò quan trọng và không thể tách rời hay xóa bỏ khỏi tiếng Việt.

Lịch sử

Với sự giao lưu trên nhiều bình diện văn hóa, kinh tế và chiến tranh giữa các dân tộc ở Trung Quốc, Đông Á và Đông Nam Á, chữ Hán được du nhập và phổ biến rộng rãi, không những trong phạm vi người Hán mà được một số dân tộc lân bang đã chấp nhận chữ Hán làm văn tự của chính họ, trong số đó có người Việt, người Triều Tiên, và người Nhật. Ba dân tộc trên nói ba thứ tiếng khác nhau mà cũng không thuộc họ ngôn ngữ với tiếng Hán nhưng đã mượn chữ Hán một cách quy mô.

Đối với người Việt sau 1000 năm Bắc thuộc, văn hóa Hán xâm nhập và chi phối sinh hoạt xã hội người Việt khá sâu đậm. Về mặt ngôn ngữ, tuy người Việt vẫn nói tiếng Việt nhưng tiếng Hán, nhất là trong những phạm vi triết học, chính trị, và kỹ thuật được người Việt vay mượn rất nhiều.

Trước thời Bắc thuộc

Lúc này tạm thời chưa có chữ viết, hoặc có thể đã có chữ viết nhưng bị người Hoa xóa sổ.

Thời Bắc thuộc

Khi Giao Chỉ bị nhà Hán chinh phục thì tiếng Hán cũng theo chân quan lại nhà Hán sang Giao Chỉ. Từ đó, người Việt được tiếp xúc trực tiếp với tiếng Hán, trực tiếp vay mượn từ ngữ của tiếng Hán.

Sau thời Bắc thuộc

Đầu thế kỷ X, Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập. Mất đi sự hiện diện trực tiếp của lớp người Hán thống trị, từ và âm Hán Việt từ đó bị cách ly khỏi dòng chính của tiếng Hán và đi theo một hướng riêng của tiếng Việt. Phần lớn kho từ vựng Hán Việt ngày nay được định hóa thuộc giai đoạn thứ hai này.

Từ Hán Việt đã góp phần làm phong phú vốn từ của tiếng Việt, phần thì bổ túc cho những từ ngữ không có trong tiếng Việt, ngoài ra gia tăng ngữ nghĩa thêm tinh tế cho dù có sẵn những chữ thuần Việt song hành. Nhu cầu dùng từ Hán Việt càng tăng cao trong thế kỷ XX, khi người Việt dùng chữ Quốc ngữ (chữ Latin) mà không muốn mất đi vốn từ vựng chữ Hán đã quen dùng trước đó, mà cách dễ nhất là dùng chữ Quốc ngữ để phiên âm các từ được viết bằng chữ Hán. Ngày nay, khi muốn sử dụng một thuật ngữ mới, người ta đều có xu hướng dùng từ Hán Việt như: "lập trình", "vi mạch", "cộng hòa", "Wiki hóa", v.v.

Ngoài ra, còn có các từ gốc Hán được tiếp nhận bằng con đường khẩu ngữ với phát âm của một phương ngữ nào đó của tiếng Hán hiện đại: ca la thầu, mì chính, quẩy, hủ tiếu, v.v. Những từ này là từ mượn và thường không được xem là từ Hán Việt.

Phân loại từ và âm Hán Việt

Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam thường chia từ và âm Hán Việt thành ba loại dựa theo thời điểm hình thành trong tiếng Việt là từ/âm Hán Việt cổ, từ/âm Hán Việttừ/âm Hán Việt Việt hoá. Cách phân loại này bắt nguồn từ cách phân loại từ Hán Việt của nhà ngôn ngữ học người Trung Quốc Vương Lực (王力). Cách phân loại từ Hán Việt của Vương Lực được giới nghiên cứu ngôn ngữ biết đến lần đầu vào năm 1948 qua một bài viết dài 128 trang của Vương Lực có tiêu đề là "Hán Việt ngữ nghiên cứu" 漢越語研究 đăng trên "Lĩnh Nam học báo" (嶺南學報, tập san học thuật của Khoa Trung văn Đại học Lĩnh Nam, Hương Cảng) tập 9, kỳ 1. Trong bài viết này Vương Lực chia từ ngữ tiếng Việt thành hai loại dựa theo nguồn gốc của chúng là tiếng Việt (nguyên văn: 越語 Việt ngữ) và tiếng Hán Việt (漢越語 Hán Việt ngữ). Dựa theo thời điểm hình thành trong tiếng Việt Vương Lực chia tiếng Hán Việt thành ba loại là tiếng Hán Việt cổ (古漢越語 cổ Hán Việt ngữ), tiếng Hán Việt (漢越語 Hán Việt ngữ) và Hán ngữ Việt hoá (漢語越化). Cách phân loại của Vương Lực được hầu hết các nhà ngôn ngữ học Việt Nam tán thành và tiếp nhận, chỉ điều chỉnh lại tên gọi các loại. Tiếng Việt, một trong ba loại tiếng Việt, được đổi thành từ thuần Việt, tiếng Hán Việt cổ, tiếng Hán Việt (một trong ba loại tiếng Hán Việt) và Hán ngữ Việt hoá được đổi thành từ Hán Việt cổ, từ Hán Việt, từ Hán Việt Việt hoá.

Cách đặt tên loại của Vương Lực có phần bất hợp lý khi trong tiếng Việt lại có một loại gọi là tiếng Việt, trong tiếng Hán Việt lại có một loại gọi là tiếng Hán Việt. Việc đổi tên tiếng Việt và tiếng Hán Việt thành từ thuần Việt và từ Hán Việt của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam giữ nguyên sự bất hợp lý này.

Vương Lực gọi những từ tiếng Việt có chung nguồn gốc với các ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái và ngữ tộc Môn – Khơ–me và các từ chưa rõ nguồn gốc là "tiếng Việt" (tương ứng với khái niệm từ thuần Việt được giới ngôn ngữ học Việt Nam sử dụng). Từ nào tiếng Việt vay mượn từ tiếng Thái nguyên thủy mà tiếng Thái nguyên thủy mượn từ tiếng Hán thì được tính là tiếng Hán Việt, không tính là tiếng Việt (từ thuần Việt). Cũng giống như "tiếng Việt" của Vương Lực, "từ thuần Việt" dù được định nghĩa như thế nào cũng vẫn luôn được dùng để chỉ cả các từ tiếng Việt chưa rõ nguồn gốc. Tại Việt Nam tên gọi "từ thuần Việt" thường bị sử dụng tuỳ tiện, người ta có thể gán cho bất cứ từ tiếng Việt nào họ nghĩ rằng đó là từ đó là từ do người Việt tự nghĩ ra, không vay mượn từ bất cứ ngôn ngữ nào là "từ thuần Việt" mà không hề dựa trên bất cứ nghiên cứu nào về từ nguyên của những từ được cho là "thuần Việt" ấy. Hầu hết những từ được người Việt gọi là từ thuần Việt là những từ chưa rõ nguồn gốc, trong những từ được gọi là "từ thuần Việt" luôn có cả những từ Hán Việt mà người ta không biết nó là từ Hán Việt.

Từ/âm Hán Việt cổ là những từ tiếng Hán được tiếng Việt thu nhận trước thời Đường thông qua giao tiếp bằng lời nói. Hầu hết từ/âm Hán Việt cổ bắt nguồn từ tiếng Hán thời nhà Hán. Phần lớn quãng thời gian từ cuối thời nhà Hán đến trước thời Đường, Giao Chỉ trong tình trạng độc lập hoặc quan lại địa phương cát cứ, việc tiếp xúc với tiếng Hán bị giảm thiểu so với trước. Cho đến trước thời Đường, ngay cả khi nhà Hán sụp đổ đã lâu người Việt ở Giao Chỉ vẫn đọc chữ Hán bằng âm Hán Việt cổ bắt nguồn từ tiếng Hán thời nhà Hán. Một số ví dụ về từ Hán Việt cổ:nhỏ|367x367px|Một câu được viết bằng chữ Nôm, trong đó, chữ thuần Việt có , còn chữ Hán-Việt có . Chữ thuần Việt trong câu này được dịch lần lượt thành [[tiếng Trung Quốc, tiếng Hàn Quốc và tiếng Nhật]]

  • Tươi: âm Hán Việt cổ của chữ "鮮", âm Hán Việt là "tiên".. Kim, ghim: âm Hán Việt cổ của chữ "針", âm Hán Việt là "châm".. "Bố" trong "bố mẹ": âm Hán Việt cổ của chữ "父", âm Hán Việt là "phụ". Xưa: âm Hán Việt cổ của chữ "初", âm Hán Việt là "sơ". "Cải" trong "dưa cải": âm Hán Việt cổ của chữ "芥", âm Hán Việt là "giới". Búa: âm Hán Việt cổ của chữ "斧", âm Hán Việt là "phủ". Buồn: âm Hán Việt cổ của chữ "煩", âm Hán Việt là "phiền". "Dua" trong "a dua": âm Hán Việt cổ của chữ "諛", âm Hán Việt là "du". Mùi: âm Hán Việt cổ của chữ "味", âm Hán Việt là "vị". Keo: âm Hán Việt cổ của chữ "膠", âm Hán Việt là "giao". Đũa: âm Hán Việt cổ của chữ "箸", âm Hán Việt là "trợ".

Từ/âm Hán Việt, một trong ba loại từ/âm Hán Việt, là những từ/âm tiếng Hán được tiếng Việt tiếp nhận trong giai đoạn từ thời nhà Đường cho đến đầu thế kỷ thứ mười khi Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập, ví dụ như "lịch sử" 歷史, "gia đình" 家庭, "tự nhiên" 自然, "đức cao vọng trọng" 德高望重, "vân vân" 云云. Từ/âm Hán Việt (một trong ba loại từ/âm Hán Việt) chủ yếu bắt nguồn từ tiếng Hán thời nhà Đường. Nhà Đường đẩy mạnh việc dạy học và sử dụng tiếng Hán ở An Nam, yêu cầu người Việt không được đọc chữ Hán bằng âm Hán Việt cổ bắt nguồn từ tiếng Hán thời nhà Hán nữa mà phải đọc bằng tiếng Hán đương thời. Điều đó làm cho tiếng Việt lúc này có hai loại từ Hán Việt là từ Hán Việt cổ bắt nguồn từ tiếng Hán trước thời Đường và từ Hán Việt bắt nguồn từ tiếng Hán đương thời. Khi người Việt hoàn toàn chuyển sang đọc chữ Hán bằng âm Hán Việt, không đọc bằng âm Hán Việt cổ nữa, âm Hán Việt trở thành cách đọc tiêu chuẩn của chữ Hán, người Việt không còn nhận ra từ Hán Việt cổ là những từ bắt nguồn từ tiếng Hán, chúng được cho là tiếng Việt, chỉ có những từ vay mượn từ tiếng Hán thời nhà Đường mới là từ tiếng Hán. Vì âm Hán Việt (một trong ba loại âm Hán Việt) là một hệ thống hoàn chỉnh, về mặt lý thuyết mọi chữ Hán đều có âm Hán Việt và âm Hán Việt là cách đọc tiêu chuẩn của chữ Hán nên trong ba loại từ Hán Việt từ Hán Việt là loại từ Hán Việt người Việt dễ nhận ra nhất.

Từ/âm Hán Việt Việt hoá là những từ Hán Việt không rõ thời điểm hình thành có quy luật biến đổi ngữ âm không hoàn toàn giống với từ Hán Việt cổ và từ Hán Việt (một trong ba loại từ Hán Việt). Trong ba loại từ Hán Việt, từ Hán Việt Việt hoá là loại khó nghiên cứu, khó phát hiện nhất. Rất khó phân biệt từ Hán Việt cổ và từ Hán Việt Việt hoá, việc tìm từ Hán Việt trong những từ tiếng Việt không phải là từ Hán Việt (một trong ba loại từ Hán Việt) đã khó, việc xác định xem chúng là từ Hán Việt cổ hay Hán Việt Việt hoá lại còn khó hơn nữa. Nhà ngôn ngữ học người Việt Nam Nguyễn Tài Cẩn cho rằng từ Hán Việt Việt hoá cũng bắt nguồn từ tiếng Hán thời Đường giống như từ Hán Việt (một trong ba loại từ Hán Việt), sau này vì ngữ âm của chúng biến đổi khác nhau mà phân hoá thành hai loại từ Hán Việt. Một số ví dụ về từ Hán Việt Việt hóa: Gương: âm Hán Việt Việt hoá của chữ "鏡", âm Hán Việt là "kính". Về: âm Hán Việt Việt hoá của chữ "回", âm Hán Việt là "hồi". "Goá" trong "goá bụa": âm Hán Việt Việt hoá của chữ "寡", âm Hán Việt là "quả". Vợ: âm Hán Việt Việt hoá của chữ "婦", âm Hán Việt là "phụ". Giường: âm Hán Việt Việt hoá của chữ "床", âm Hán Việt là "sàng". "Sức" trong "sức lực": âm Hán Việt Việt hoá của chữ "力", âm Hán Việt là "lực". "Giống" trong "hạt giống", "giống loài": âm Hán Việt Việt hoá của chữ "種", âm Hán Việt là "chủng" (chữ "種" có hai âm Hán Việt là "chủng" và "chúng", khi "種" có nghĩa là "giống" thì đọc là "chủng"). Thuê: âm Hán Việt Việt hoá của chữ "稅", âm Hán Việt là "thuế".

Xét về tỷ lệ xuất hiện của ba loại từ Hán Việt trong những lời nói thường ngày của người Việt, từ Hán Việt, loại dễ phát hiện nhất lại chiếm tỷ lệ thấp nhất, hai loại khó phát hiện nhất là từ Hán Việt cổ và Hán Việt Việt hoá lại chiếm tỷ lệ cao nhất. Cũng vì chỉ có từ Hán Việt, một trong ba loại từ Hán Việt, được coi là từ Hán Việt, còn từ Hán Việt cổ và Hán Việt Việt hoá được coi là từ thuần Việt nên khi tính tỷ lệ từ Hán Việt trong tiếng Việt người ta thấy trong những lời nói thường ngày từ Hán Việt chiếm tỷ lệ rất thấp.

Thành ngữ Hán Việt

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Từ Hán Việt** là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách ghép các từ và/hoặc ngữ
**Từ Hán Việt gốc Nhật** là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có nguồn gốc từ những từ ngoại lai gốc tiếng Nhật, phiên âm Hán Việt dựa theo Kanji. Từ Hán Việt gốc
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
**Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc** (**VKFTA**; tiếng Anh: Viet Nam – Korea Free Trade Agreement; tiếng Hàn: 한-베트남 자유무역협정) là điều ước quốc tế được ký kết giữa Cộng
**Từ thuần Việt** là những từ do người Việt sáng tạo, và như thế, là những từ có nguồn gốc nội sinh. ## Nguồn gốc Về mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Phiên thiết Hán-Việt** là dùng cách **phiên thiết** (反切), tức là dùng âm của hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho cách đọc âm Hán của
nhỏ|phải|Lãnh thổ thời tự chủ Việt Nam. **Tự chủ** là thời kỳ đầu khôi phục lại nền độc lập của Việt Nam đầu thế kỷ 10 sau hơn 1000 năm Bắc thuộc. Thời kỳ này,
**Chiến tranh Hán-Việt 42-43** là một cuộc chiến do tướng nhà Đông Hán Mã Viện chỉ huy chống lại quân nổi dậy của Hai Bà Trưng ở đất Việt năm 42-43. ## Hoàn cảnh Sau
nhỏ|phải|Trang bìa Từ điển Việt–Bồ–La _Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum_ ấn bản 1651. Lưu ý chữ Annamiticum viết sai vì có 3 chữ "n" **_Từ điển Việt–Bồ–La_** (tiếng Latinh: _Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum_) là
'' **Khu tự trị Việt Bắc** (1956 -1975) là một đơn vị hành chính cũ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiền thân của nó là Liên khu Việt Bắc. ## Lịch sử
**Báo điện tử tiếng Việt** là các loại hình báo điện tử (online) bằng tiếng Việt. Theo thông tin từ Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam, tính đến năm 2022, cả nước Việt
**Chữ Hán**, còn gọi là **Hán tự**, **Hán văn****,** **chữ nho**, là loại văn tự ngữ tố - âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Ngôn
**Từ vựng tiếng Việt** là một trong ba thành phần cơ sở của tiếng Việt, bên cạnh ngữ âm và ngữ pháp. Từ vựng tiếng Việt là đối tượng nghiên cứu cơ bản của ngành
**Chính tả tiếng Việt** là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ tiếng Việt. Đây là một hệ thống quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng
nhỏ|_"Tôi nói tiếng Việt Nam"_ (碎呐㗂越南), bên trên viết bằng [[chữ Quốc ngữ (chữ Latinh), bên dưới viết bằng chữ Nôm.|250x250px]] **Chữ viết tiếng Việt** là những bộ chữ viết mà người Việt dùng để
**Tiếng Hàn Quốc**, **Tiếng Hàn** hay **Hàn ngữ** ( - cách gọi của Hàn Quốc) hoặc **Tiếng Triều Tiên** hay **Triều Tiên ngữ** ( - cách gọi của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều
**Tên người Việt Nam** được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 TCN và càng ngày càng đa dạng hơn, trong khi có ý kiến khác cho rằng: "sớm
**Tiếng lóng** hay **từ lóng** trong tiếng Việt là các từ vựng hạn chế về mặt thành phần và tầng lớp sử dụng. Trong từng trường hợp khác nhau thì tiếng lóng được sử dụng
**Trong lịch sử Việt Nam tồn tại hai bộ số**: một sử dụng từ vựng thuần Việt; và một sử dụng từ vựng Hán-Việt. Trong ngôn ngữ hiện đại, từ thuần Việt được sử dụng
Căn cứ vào nguồn gốc của các từ, các nhà nghiên cứu chia từ vựng tiếng Việt thành hai lớp: từ thuần Việt và từ mượn hay còn gọi là từ ngoại lai. Nội dung
Để đáp ứng nhu cầu có công cụ đối chiếu hai ngôn ngữ Việt Hán, chúng tôi đã biên soạn hai cuốn từ điển loại bỏ túi Từ điển Hán Việt hiện đại và Từ
Đại Tự Điển Hán Việt - Hán Ngữ Cổ Và Hiện Đại Bìa Cứng Với tên gọiĐẠI TỰ ĐIỂN HÁN VIỆT HÁN NGỮ CỔ VÀ HIỆN ĐẠI, tự điển này được biên soạn nhắm vào
Từ Điển Việt Hàn Tái Bản 2018 Những năm gần đây người Việt học tiếng Hàn Quốc ngày càng đông do sự phát triển giao lưu mạnh mẽ giữa 2 nước Việt - Hàn. Điều
Từ Điển Việt - Hàn Trong mối quan hệ ngoại giao Việt Nam Hàn Quốc ngày càng tăng cường, nhu cầu học tiếng Hàn ngày càng trở nên cấp thiết. Số lượng trường đại học
Từ Điển Việt - Hàn Trong mối quan hệ ngoại giao Việt Nam Hàn Quốc ngày càng tăng cường, nhu cầu học tiếng Hàn ngày càng trở nên cấp thiết. Số lượng trường đại học
**Nhóm ngôn ngữ Việt** hay **Nhóm ngôn ngữ Việt-Chứt** là một nhánh của ngữ hệ Nam Á. Trước đây người ta còn gọi Nhóm ngôn ngữ này là **Việt-Mường**, **Annam-Muong**, **Vietnamuong**, nhưng hiện nay nói
Trong mối quan hệ hợp tác Việt Nam Hàn Quốc ngày càng tăng cường và thúc đẩy thì nhu cầu học tiếng Hàn ngày càng lớn. Giáo trình Luyện dịch song ngữ Hàn Việt qua
Luyện dịch song ngữ Hàn Việt qua 3000 tiêu đề báo chí Trong mối quan hệ hợp tác Việt Nam Hàn Quốc ngày càng tăng cường và thúc đẩy thì nhu cầu học tiếng Hàn
Trong mối quan hệ hợp tác Việt Nam Hàn Quốc ngày càng tăng cường và thúc đẩy thì nhu cầu học tiếng Hàn ngày càng lớn. Giáo trình Luyện dịch song ngữ Hàn Việt qua
Hiện nay, tiếng Hán được dùng rộng rãi, phổ biến trong nhiều lĩnh vực xã hội, người học tập và sử dụng tiếng Hán càng có nhu cầu muốn biết những từ mới và thuật
Hiện nay, tiếng Hán được dùng rộng rãi, phổ biến trong nhiều lĩnh vực xã hội, người học tập và sử dụng tiếng Hán càng có nhu cầu muốn biết những từ mới và thuật
**Tư Mã Việt** (chữ Hán: 司馬越, ?-311), tức **Đông Hải Hiếu Hiến vương** (東海孝獻王), tự là **Nguyên Siêu** (元超), là tông thất của nhà Tấn, một trong tám vị chư hầu vương trong loạn bát
nhỏ|phải|[[Thương xá Phước Lộc Thọ]] nhỏ|phải|Bia chào mừng đến [[Little Saigon ở Garden Grove, California bằng tiếng Anh và tiếng Việt]] Tiếng Việt có hơn 1,5 triệu người sử dụng tại Hoa Kỳ và là
Khoảng 12.000 mục từ đơn gồm cả cổ Hán ngữ và Hán ngữ hiện đại, được xếp theo 214 bộ thủ truyền thống. Chữ Hán được trình bày với dạng phồn thể và giản thể,
Khoảng 12.000 mục từ đơn gồm cả cổ Hán ngữ và Hán ngữ hiện đại, được xếp theo 214 bộ thủ truyền thống. Chữ Hán được trình bày với dạng phồn thể và giản thể,
Khoảng 9.500 mục từ đơn và 50.000 mục từ ghép gồm cả Hán ngữ cổ đại và Hán ngữ hiện đại. Chữ Hán được trình bày dưới dạng phồn thể và giản thể. Các từ
**Ngữ pháp tiếng Việt** là những đặc điểm của tiếng Việt theo các cách tiếp cận ngữ pháp khác nhau: tiếp cận ngữ pháp cấu trúc hay tiếp cận ngữ pháp chức năng. Phần dưới
**Từ mượn** là từ vay mượn từ tiếng nước ngoài (ngôn ngữ khác) để làm phong phú thêm cho vốn từ vựng của ngôn ngữ nhận. Gần như tất cả các ngôn ngữ trên thế
1200 Câu Giao Tiếp Hàn - Việt Cuốn sách 1200 Câu Giao Tiếp Hàn - Việt được biên soạn nhằm cung cấp thêm tài liệu dành cho những người có nhu cầu ôn luyện thêm
Có bán sỉ nếu quý khách quan tâm vui lòng liên hệ chúng tôi trên FacebookChúng đã trực tiếp đem hàng từ Hàn Quốc về Việt Nam, nên quý khách hãy tin tưởng mà dùng
Có bán sỉ nếu quý khách quan tâm vui lòng liên hệ chúng tôi trên FacebookChúng đã trực tiếp đem hàng từ Hàn Quốc về Việt Nam, nên quý khách hãy tin tưởng mà dùng
Có bán sỉ nếu quý khách quan tâm vui lòng liên hệ chúng tôi trên FacebookChúng đã trực tiếp đem hàng từ Hàn Quốc về Việt Nam, nên quý khách hãy tin tưởng mà dùng
**Ký tự phiên âm**, **Chữ phiên âm** hay **chữ Ruby** là ký tự nhỏ mà có thể được đặt ở trên hoặc bên phải của một chữ Hán (và cả chữ Nôm) để hiển thị
**Jin I-han** (còn được viết là **Jin Yi-han** hay **Jin Lee-han**, Hàn tự: 진이한, Hán tự: 眞理翰, Hán-Việt: Chân Lý Hàn), tên thật là **Kim Hyeon-joong** (Hàn tự: 김현중, Hán tự: 金鉉中, Hán-Việt: Kim Huyễn
Có bán sỉ nếu quý khách quan tâm vui lòng liên hệ chúng tôi trên FacebookChúng đã trực tiếp đem hàng từ Hàn Quốc về Việt Nam, nên quý khách hãy tin tưởng mà dùng
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương** (Tiếng Trung Quốc: **新疆维吾尔自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Xīn Jiāng Wéiwú'ěr Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Tân Cương Duy Ngô Nhĩ tự
Có bán sỉ nếu quý khách quan tâm vui lòng liên hệ chúng tôi trên FacebookChúng đã trực tiếp đem hàng từ Hàn Quốc về Việt Nam, nên quý khách hãy tin tưởng mà dùng
Có bán sỉ nếu quý khách quan tâm vui lòng liên hệ chúng tôi trên FacebookChúng đã trực tiếp đem hàng từ Hàn Quốc về Việt Nam, nên quý khách hãy tin tưởng mà dùng