✨Tấn Nguyên Đế

Tấn Nguyên Đế

Tấn Nguyên Đế (chữ Hán: 晉元帝, 276-323), là vị Hoàng đế thứ 6 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị vua đầu tiên của nhà Đông Tấn, ở ngôi từ năm 317 đến năm 323. Thời đại của Nguyên Đế mở đầu thời kỳ suy yếu của nhà Tấn, chỉ còn làm chủ vùng phía nam sông Hoài xuống Giang Nam.

Tiểu sử

Tấn Nguyên Đế tên thật là Tư Mã Duệ (司馬睿) (276-323). Ông là dõng dõi tôn thất nhà Tấn, con của Lang Gia Cung vương Tư Mã Cận với Lang Gia vương phi Hạ Hầu Quang Cơ, anh Đông An công Tư Mã Do. Xét theo phả hệ dòng họ Tư Mã thì ông là em họ của Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung, do Tư Mã Ý là cụ nội, còn ông nội ông là Tư Mã Trụ (司馬伷), em trai của Tư Mã Chiêu.

Thời Tây Tấn

Trong Loạn bát vương

Năm 290, khi Tư Mã Cận chết, Tư Mã Duệ được tập tước Lang Gia vương. Trong loạn bát vương, Tư Mã Duệ tham gia phái của Đông Hải vương Tư Mã Việt. Khi nội bộ mâu thuẫn, Thành Đô vương Tư Mã Dĩnh giết Đông An vương Tư Mã Do. Tư Mã Duệ sợ bị liên luỵ, bèn cùng văn thần Vương Đạo mưu bỏ trốn về quận Lang Gia. Tuy nhiên Tư Mã Dĩnh đoán biết ý đó, bèn ra lệnh phong tỏa các bến đò. Dù đã thay đổi quần áo nhưng khi ra tới bến đò sông Hoàng Hà, ông vẫn bị người gác nghi vấn chặn lại. Lúc đó có tùy tùng là Tống Điển nhanh trí lấy roi ngựa đập lên người ông nói: :Xã trưởng này, quan cấm người quyền quý, sao ngươi cũng bị giữ lại thế?

Viên lại giữ bến đò nghe thế không còn nghi ngờ ông, bèn thả cho đi.

Năm 305, Tư Mã Duệ được Tư Mã Việt cử làm Bình Đông Tướng quân, đóng quân ở Hạ Phì, trông coi việc quân sự ở Từ Châu. Tư Mã Duệ dùng Vương Đạo (276–339) làm Quân Tư mã.

Xây dựng thế lực ở Giang Nam

Năm 307, Tư Mã Duệ được Đông Hải vương Tư Mã Việt cho phép đến đóng tại Kiến Khang, giữ chức Đô đốc Dương Châu trông coi việc quân sự ở Giang Nam. Khi Tư Mã Duệ đến nhậm chức chỉ có một số ít người ra đón. Theo đề nghị của Vương Đạo, Tư Mã Duệ tranh thủ sự ủng hộ của các đại tộc lớn Chu, Cam, Cố, Tạ, Kỷ mời những người người có tiếng tăm như Cố Vinh, Hạ Tuân tham gia chính quyền. Họ Vương giữ vai trò chủ chốt trong chính quyền vùng Dương Châu.

Năm 312, Thạch Lặc từ Giang Bắc đến đóng quân ở Cát Bi (bắc huyện Tân Thái, Hà Nam), chuẩn bị lực lượng tấn công vào Kiến Nghiệp. Tư Mã Duệ vội điều động quân đội đến Thọ Xuân, bổ nhiệm Trấn Đông Trưởng sử Kỷ Chiêm làm Dương Uy Tướng quân, đô đốc quân đội. Nhân lúc quân Thạch Hổ (em họ Thạch Lặc) mải cướp lương thực, quân Tấn tập kích đánh cho đại bại phải rút về phương bắc. Khi Thạch Lặc rút quân, quân Tấn thực hiện chính sách vườn không nhà trống làm cho quân Thạch Lặc không kiếm được lương.

Trước đó tại Giang Nam, tướng Vương Đôn (Phò mã của Tấn Vũ Đế), nguyên Thứ sử Thanh Châu, được Đông Hải vương Tư Mã Việt cử làm Thứ sử Dương Châu, xua quân xuống phía nam, quét sạch các lực lượng vũ trang cát cứ tại khu vực nằm giữa sông Trường Giang và sông Hoài, thế lực bước đầu có quy mô.

Năm 311, dân lưu lạc tại Kinh-Tương do Đỗ Thao cầm đầu khởi nghĩa chống lại nhà Tấn, bị lực lượng của Vương Đôn trấn áp. Vương Đôn thừa cơ sáp nhập vùng trung du của Trường Giang vào phạm vi thế lực của họ Vương. Cùng năm đó, Vương Đôn kiêm nhiệm đô đốc quân sự 6 châu Giang, Dương, Kinh, Tương, Giao, Quảng, trở thành tập đoàn quân sự lớn nhất ở phía nam.

Năm 313, Tấn Mẫn Đế lên ngôi, phong cho ông làm Tả thừa tướng.

Lên ngôi Hoàng đế

Năm 316, quân Hán Triệu tộc Hung Nô tiến đánh Trường An, bắt Tấn Mẫn Đế. Miền bắc Trung Quốc bị các tộc Ngũ Hồ xâm chiếm. Một số châu quận vẫn thế thủ chống lại quân Ngũ Hồ nhưng không có người cầm trịch.

Trước tình hình đó, các họ lớn ở đó gồm có Chu, Cam, Lữ, Cố, ủng hộ Tư Mã Duệ tự lập làm vua, ngày Tân Mão tháng 3 ÂL năm 317, ông xưng Tấn vương và đặt niên hiệu Kiến Vũ, lập Tông miếu, kiến xã tắc, cầm quyền chỉ huy vùng Giang Nam vì khi đó Mẫn Đế đang bị cầm tù ở Bình Dương.

Năm 318, Mẫn Đế bị vua Hán là Lưu Thông giết. Tin đó truyền đến Kiến Khang vào tháng 3 ÂL, ngày Canh Ngọ cùng tháng, Tư Mã Duệ bèn lên ngôi Hoàng đế, tức là Nguyên Đế của triều Đông Tấn (317-420).

Cán cân quyền lực ở miền Nam

Có khoảng 100 gia đình quý tộc lớn ở phía bắc chạy xuống phía nam. Sĩ tộc Giang Nam bằng lòng liên hợp với sĩ tộc miền Bắc di dời xuống để chống lại thế lực Ngũ Hồ đang muốn xâm lược phía nam. Địa vị và quyền lợi của địa chủ miền Bắc được nhà Đông Tấn đảm bảo nên các địa chủ miền Bắc nhanh chóng củng cố được thế lực và tham gia bộ máy chính quyền mới, ủng hộ nhà Đông Tấn.

Ở Giang Nam, giới địa chủ đã có đất đai và chính quyền rồi nên cũng không có ý muốn quay trở về miền Bắc.

Tể tướng Vương Đạo chủ trương đường lối bảo vệ quyền lực Hoàng đế, cân bằng các sĩ tộc hai vùng Bắc Nam, nhượng bộ và buông lỏng với thế gia đại tộc. Quan điểm của Vương Đạo là "cứ bình tĩnh, cầu sao cho hòa hoãn tạm thời rồi mọi việc đâu lại vào đấy".

Các sĩ tộc miền Nam bất mãn trước việc sĩ tộc phương Bắc đang có ý định nắm chính quyền và có thái độ tiêu cực đối với việc Bắc phạt. Nguyên Đế cũng theo tư tưởng đó của Vượng Đạo. Chính vì vậy, những người có chủ trương Bắc phạt mạnh mẽ, điển hình là Tổ Địch, không được hậu thuẫn mạnh mẽ từ phía chính quyền trung ương. Tổ Địch phải tự lực mộ quân đánh lên Bắc và sau một thời gian, do những yếu tổ cản trở đã phẫn chí qua đời.

Vụ biến loạn Vương Đôn

Năm 320, mâu thuẫn giữa Nguyên Đế và Vương Đôn lên đến đỉnh điểm, Vương Đôn ngày càng có nhiều tham vọng kiểm soát các châu quận phía tây. Sang năm 321, Nguyên Đế lệnh cho các tướng Đới Uyển, Lưu Quỹ đem quân chống cự Hậu Triệu nhưng thực tế để ngăn ngừa Vương Đôn.

Mùa xuân năm 322, Vương Đôn bắt đầu chiến dịch chống lại Nguyên Đế, tuyên bố Nguyên Đế bị Lưu Quỹ và Điêu Hiệp lừa dối, và mục đích của Đôn nhằm làm trong sạch chính quyền. Vương Đôn thuyết phục Cam Trác, Thứ sử Lương Châu và Biện Cổn, Thứ sử Tương Châu ủng hộ nhưng không ai hưởng ứng, nhưng cũng không ngăn chặn hành động của Vương Đôn, giữ thái độ trung lập.

Dù Vương Đôn là anh họ Vương Đạo, nhưng Nguyên Đế vẫn phái Vương Đạo làm Tiên phong Đại đô đốc chỉ huy chống lại Vương Đôn. Vương Đôn tiến quân về Kiến Khang, đánh bại lực lượng của Nguyên Đế. Lưu Quỹ chạy sang hàng Hậu Triệu, trong khi Điêu Hiệp, Đới Uyển, Bộc xạ Chu Kỷ và một số khác bị giết. Nguyên Đế buộc phải nhượng bộ và gia tăng quyền lực cho Vương Đôn. Vương Đôn thỏa mãn với điều đó và không tính chuyện lật đổ Nguyên Đế. Vương Đôn rút về Vũ Xương , đánh bại Tư Mã Thành, đồng thời ám hại Cam Trác.

Không lâu sau, Nguyên Đế lâm bệnh mất, con là Tư Mã Thiệu lên ngôi (tức Minh Đế). Vương Đôn sau này bị đánh bại dưới thời Minh Đế.

Gia đình

Cha: Lang Gia Cung vương Tư Mã Cận Mẹ: Lang Gia vương phi Hạ Hầu Quang Cơ *Anh em Đông An vương Tư Mã Do *Hậu phi Ngu Mạnh Mẫu, sau truy tôn là Nguyên Kính hoàng hậu Dự Chương quận quân Tuân Thị, sinh Tấn Minh Đế Tư Mã Thiệu và Lang Nha vương Tư Mã Bầu, mất năm 335 Trịnh phu nhân, sinh Tư Mã Hoán, Tấn Giản Văn Đế Tư Mã Dục và Tầm Dương công chúa, mất năm 326, sau được truy tôn là Tuyên Thái hậu Thạch Tiệp dư, sinh Tư Mã Xung *Vương tài nhân, sinh Tư Mã Hi Con cái Tấn Minh Đế Tư Mã Thiệu, tự Đạo Kì Lang Gia Hiếu vương Tư Mã Bầu, tự Đạo Thành Đông Hải Ai vương Tư Mã Xung (mất sớm) Vũ Lăng Uy vương Tư Mã Hi (tự Đạo Thúc) Lang Gia Điệu vương Tư Mã Hoán (tự Diệu Tổ, mất sớm) Tấn Giản Văn Đế Tư Mã Dục Tầm Dương công chúa, lấy Tuân Di

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tấn Nguyên Đế** (chữ Hán: 晉元帝, 276-323), là vị Hoàng đế thứ 6 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị vua đầu tiên của nhà Đông Tấn, ở
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Tấn Mục Đế** () (343 – 10 tháng 7 năm 361), tên thật là **Tư Mã Đam** (司馬聃), tên tự **Bành Tử** (彭子), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Tấn Minh Đế** (晋明帝/晉明帝, bính âm: Jìn Míngdì,) (299 – 18 tháng 10, 325), tên thật là **Tư Mã Thiệu** (司馬紹), tên tự **Đạo Kỳ** (道畿), là vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Đông
**Tấn Huệ Đế** (chữ Hán: 晋惠帝; 259 – 307), tên thật là **Tư Mã Trung** (司馬衷), là vua thứ hai của nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông không có năng lực cai
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Tấn Cung Đế** () (386–421), tên thật là **Tư Mã Đức Văn** (司馬德文) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Đông Tấn và là Hoàng đế cuối cùng của triều đại Nhà Tấn trong
**Minh Nguyên Mật hoàng hậu** (chữ Hán: 明元密皇后; ? - 420), còn gọi là **Đỗ phu nhân** (杜夫人) hoặc **Mật quý tần** (密贵嫔), là người huyện Nghiệp Nhân, Ngụy quận, là phi tần của Bắc
**Chiêu Ai hoàng hậu** (chữ Hán: 昭哀皇后, ? - 420), họ Diêu (姚氏), là công chúa Hậu Tần và là phi tần của Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế của nhà Bắc Ngụy trong lịch sử
**Tấn Hoài đế** (chữ Hán: 晉懷帝, 284-313), hay **Tấn Hoài vương** (晉懷王), tên thật là **Tư Mã Xí** (司馬熾), tên tự là **Phong Đạc** (豐度), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Tấn trong
**Nguyên Đế** (chữ Hán: 元帝 hoặc 原帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách *Đường Huyền Nguyên Đế (truy tôn) *Hán Nguyên Đế (gọi tắt, thụy hiệu gốc là Hiếu
**Tân Nguyên** (; ) là một huyện của Châu tự trị dân tộc Kazakh - Ili (Y Lê), khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc. ### Trấn * Tân Nguyên (新源镇) * A Nhiệt Lặc
**Tấn Thành Đế** () (321 – 26 tháng 7 năm 342), tên thật là **Tư Mã Diễn** (司馬衍), tên tự **Thế Căn** (世根), là vị Hoàng đế thứ 3 của nhà Đông Tấn, và là
**Hậu Tấn Xuất Đế** hay Thiếu Đế **Thạch Trọng Quý** (914-974), là vị vua thứ hai của nhà Hậu Tấn. Ông trị vì từ năm 942 tới năm 946. ## Sơ kỳ Thạch Trọng Quý
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Nguyễn Đề** (阮提, 1761-1805), húy là **Nễ**, tự _Nhất Quế_, hiệu _Quế Hiên_ (桂軒, Gia phả ghi là **Quế Hiên công**); sau đổi tên là **Đề**, tự _Tiến Phủ_, hiệu _Tỉnh Kiên_, biệt hiệu _Văn
**Lương Nguyên Đế** (梁元帝), tên thật là **Tiêu Dịch** (chữ Hán: 蕭繹; 508 – 555), là vị vua thứ ba của nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ
**_Tân Nguyên sử_** (chữ Hán: 新元史) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử) do Kha Thiệu Mân (1850 – 1933, một thành
**Hiếu Nguyên Đế** (_chữ Hán_ 孝元帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử khu vực Á Đông. ## Danh sách *Tây Hán Hiếu Nguyên Đế (thường gọi tắt thụy hiệu
**Ngụy Nguyên Đế** (_chữ Hán_:魏元帝) có thể là: ## Danh sách *Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán, Hoàng đế cuối cùng của nước Ngụy thời Tam Quốc, đời nhà Tấn bị giáng xuống làm Trần Lưu
**Cảnh Nguyên Đế** (chữ Hán: 景元帝) là thụy hiệu của một số nhân vật lịch sử tuy không làm vua nhưng được hậu duệ làm quân chủ truy tôn. ## Danh sách * Hậu Tần
**_Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế thứ ba – Lịch sử Đức Quốc Xã_** (nguyên tác tiếng Anh: _The Rise and Fall of the Third Reich: A History of Nazi Germany_) là
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Đảng Việt Tân** hoặc **Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng** (tiếng Anh: _Vietnam Reform Revolutionary Party_, **VRRP**) là một tổ chức chính trị được thành lập bởi một nhóm người Mỹ gốc Việt tại
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Tản Đà** (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật **Nguyễn Khắc Hiếu** (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của
**Tân Bình** là một quận nội thành cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận Tân Bình nổi tiếng vì có sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là sân bay lớn nhất
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Tôma Nguyễn Văn Tân** (1940 – 2013) là một Giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Vĩnh Long từ
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia