✨Tấn Thành Đế

Tấn Thành Đế

Tấn Thành Đế () (321 – 26 tháng 7 năm 342), tên thật là Tư Mã Diễn (司馬衍), tên tự Thế Căn (世根), là vị Hoàng đế thứ 3 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 8 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai cả của Tấn Minh Đế và trở thành thái tử vào ngày 1 tháng 4 năm 325. Dưới thời ông cai trị, quyền hành phần lớn bị những người nhiếp chính chi phối, ban đầu là người bác bên họ mẹ, Dữu Lượng (庾亮), về sau là Vương Đạo (王導), tiếp theo là tình trạng đồng nhiếp chính của Hà Sung (何充) và một người bác bên họ mẹ khác là Dữu Băng (庾冰). Ông lên ngôi hoàng đế khi mới bốn tuổi, và ngay sau đó cuộc nổi loạn của Tô Tuấn (蘇峻) đã làm suy yếu Đông Tấn trong nhiều thập niên sau đó.

Lên ngôi

Tư Mã Diễn sinh năm 321, là người con trai cả của Tấn Minh Đế Tư Mã Thiệu, khi đó Tư Mã Thiệu đang là thái tử, mẹ đẻ của Tư Mã Diễn là Dữu Văn Quân. Minh Đế lên ngôi vào năm 323 sau khi Nguyên Đế băng hà, sau đó ông lập Dữu Thái tử phi làm Dữu Hoàng hậu, song lại không lập ngay Thái tử, Tư Mã Diễn chỉ trở thành thái tử vào năm 325.

Vào mùa thu năm 325, Minh Đế lâm bệnh. Ông giao người con trai mới bốn tuổi cho một nhóm đại thần, bao gồm Tư Mã Dạng (司馬羕), Vương Đạo, Biện Khổn (卞壼), Si Giám (郗鑒), Lục Diệp (陸曄), Ôn Kiệu (溫嶠), cùng người anh trai của Hoàng hậu là Dữu Lượng, có lẽ ông tính toán rằng điều này sẽ giúp cân bằng được quyền lực. Minh Đế qua đời ngay sau đó. Diễn Thái tử lên ngôi và trở thành Thành Đế.

Dữu Lượng nhiếp chính

Ban đầu, các đại thần cùng có trách nhiệm cai quản, tuy nhiên Dữu Thái hậu đã trở thành người nhiếp chính, do vậy Dữu Lượng đã trở thành vị đại thần quyền lực nhất trong triều. Ông đã thay đổi các chính sách khoan dung của Vương Đạo (người từng làm thừa tướng dưới thời Minh Đế) và áp dụng một cách khắt khe các điều luật và quy định. Hơn nữa, ông còn trở nên lo sợ trước các tướng Đào Khản và Tổ Ước (祖約), không ai trong hai người được nhắc đến trong danh sách ưu đãi và thăng chức trong chúc thư của Minh Đế và người ta tin rằng Dữu Lượng đã xóa tên của họ khỏi chúc thư. Năm 326, ông đánh lừa dư luận bằng cách cáo buộc sai huynh đệ của Tư Mã Dạng là Tư Mã Tông (司馬宗), mang tước Nam Đốn vương tội phản nghịch rồi giết chết ông và sau đó hạ bệ Tư Mã Dạng.

Loạn Tô Tuấn

Năm 327, lo sợ Tô Tuấn, Dữu Lượng quyết định tước quyền chỉ huy quân đội của họ Tô bằng cách thăng làm quan phụ trách việc nông, một vị trí không liên quan đến chức chỉ huy quân sự. Sau do dự ban đầu, Tô Tuấn cuối cùng đã từ chối và lập một liên minh với Tổ Ước để chống Dữu Lượng. Khi nghe được điều này, Ôn Kiệu, người được Dữu Lượng phong làm thứ sử Giang Châu (江州, nay là Giang Tây) để chống Đào Khản, thứ sử của Kinh Châu (荊州, nay là Hồ Bắc), muốn nhanh chóng lên đường để bảo vệ kinh thành Kiến Khang, cũng như quân địa phương ở phía đông của kinh thành, song Dữu Lượng đã từ chối mọi sự giúp đỡ, ông ta muốn Ôn Kiệu vẫn ở vị trí để chống lại Đào Khản và tin tưởng rằng mình có thể dễ dàng đả bại Tô Tuấn. Lo rằng Dữu Lượng sẽ thất bại trước Tô Tuấn, Ôn Kiệu đã tiến về kinh, song trước đó Tô Tuấn đã bai vây kinh thành vào đầu năm 328 và bắt Thành Đế cùng Dữu Thái hậu làm con tim. Biện Khổn chết trong trận chiến, và Dữu Lượng bắt buộc phải chạy đến chỗ Ôn Kiệu. Tô Tuấn cho binh lính của mình cướp phá kinh thành, tài sản và y phục của các quan cũng như dân thường đều bị quân của Tô Tuấn lột sạch, chúng thậm chí còn bắt các hầu gái của Dữu Thái hậu. Dữu Thái hậu do bị Tô Tuấn làm cho nhục nhã và vì lo sợ những gì sẽ diễn ra nên đã chết trong lo âu.

Tô Tuấn đã lập ra một chính quyền mới, trong đó người được Tô Tuấn tôn trọng là Vương Đạo được phong làm nhiếp chính vương trên danh nghĩa, song bản thân Tô Tuấn mới thực sự là người nhiếp chính. Trong khi đó, Dữu Lượng và Ôn Kiệu đã cố lấy lại kinh thành. Người anh em họ của Ôn Kiệu là Ôn Sung (溫充) đề xuất mời Đào Khản, một tướng giỏi và có lượng binh lính khá lớn làm người chỉ huy tối cao của đội quân. Tuy nhiên, Đào Khản vẫn còn bực bội trước Dữu Lượng nên ban đầu đã từ chối. Tuy nhiên, họ Đào cuối cùng đã nhượng bộ và tham gia cùng Ôn Kiệu và Dữu Lượng. Họ tiến về phía đông đến Kiến Khang. Phản ứng lại, Tô Tuấn đưa Thành Đế đến thành Thạch Đầu trên thực tế là đặt vị hoàng đế cùng tùy tùng dưới quyền quản thúc. Trong khi đó, Vương Đạo đã bí mật lệnh cho các chỉ huy tiến về phía đông đẻ nổi dậy chống lại Tô Tuấn, ông cuối cùng đã thuyết phục được tước của Tô Tuấn là Lộ Vĩnh (路永) rời bỏ quân Tô để về phe quân Ôn và Đào. Si Giám cùng quân của mình cũng đến hội quân từ Quảng Lăng (廣陵, nay là Hoài An, Giang Tô).

Hai phe giao chiến trong nhiều tháng, mặc dù quân chống Tô Tuấn có lợi thế về quân số song họ đã không thể chiếm ưu thế, khiến Đào Khản từng xem xét việc rút lui. Tuy nhiên, Ôn Khiệu đã thuyết phục được Đào ở lại và tiếp tục chống Tô. Đến mùa thu, trong một cuộc tấn công ở Thạch Đầu, quân chống Tô ban đầu hứng chịu thất bại, nhưng khi Tô Tuấn tiến hành phản công, ông ta đã bị ngã ngựa và bị thương đâm trúng. Quân chống Tô xông lên và chặt đầu thi thể Tô Tuấn. Quân của Tô Tuấn ban đầu ủng hộ anh trai Tô Tuấn là Tô Dật (蘇逸) làm lãnh đạo và tiếp tục phòng thủ Thạch Đầu, song đã bị đánh bại vào đầu năm 329.

Với các hậu quả để lại sau khi quân của Tô Tuấn thất bại, như kinh thành Kiến Khang bị thiệt hại nặng nề, các quan đại thần đã xem xét việc dời đô đến Dự Chương (豫章, nay thuộc Nam Xương, Giang Tây) hoặc Hội Kê (會稽, nay thuộc Thiệu Hưng, Chiết Giang), nhưng Vương Đạo phản đối, lưu ý rằng Kiến Khang ở nằm ở một vị trí tốt hơn để quan sát phòng thủ từ hướng bắc chống lại Hậu Triệu, kinh thành cuối cùng vẫn đặt tại Kiến Khang. Ôn Kiệu được yêu cầu ở lại Kiến Khang làm nhiếp chính vương, song ông tin rằng Minh Đế mong đợi Vương sẽ giữa vai trò này nên cuối cùng Vương Đạo trở thành nhiếp chính vương. Trong khi đó, Dữu Lượng, ban đầu đề nghị từ bỏ mọi vị trí của mình và đi sống lưu vong, song cuối cùng đã chấp nhận làm một tổng đốc.

Do mẫu thân đã chết, Thành Đế lúc đó đang tám tuổi bắt đầu được bà nội, tức Tuân phu nhân nuôi dưỡng.

Vương Đạo nhiếp chính

Cuối năm 329, Ôn Kiệu chết, tướng Quách Mặc (郭默) sớm sau đó đã ám sát người kế nhiệm là Lưu Dận (劉胤) và giành lấy Kinh Châu. Vương Đạo ban đầu muốn tránh một cuộc chiến khác và xoa dịu Quách, song Đào Khản và Dữu Lượng phản đối, quân của họ nhanh chóng hội về đô phủ của Giang Châu là Tầm Dương (尋陽, nay là Cửu Giang, Giang Tây) vào năm 330 và giết chết họ Quách.

Trong khi đó, trong và sau loạn Tô Tuấn, quân Tấn ở Hoa Trung không có viện trợ từ triều đình trung ương nên đã không thể giữ được các vị trí của mình và cuối cùng Đông Tấn mất hầu hết Hoa Trung vào tay Hậu Triệu. Các thành quan trọng bị mất trong thời kỳ này gồm cựu đô Lạc Dương, Thọ Xuân (壽春, nay thuộc Lục An, An Huy), và Tương Dương (襄陽, nay thuộc Tương Phàn, Hồ Bắc), song Đông Tấn đã tái chiếm được Tương Dương vào năm 332. Năm 333, Đông Tấn mất Ninh Châu (寧州, nay là Vân Nam và Quý Châu) vào tay Thành Hán song đã lấy lại được vào năm 339.

Với vai trò nhiếp chính vương, Vương Đạo khôi phục phần lớn các chính sách trước đó của mình là khoan dung và thi hành pháp luật không nghiêm, đièu này đã giúp ổn định tình hình chính trị song cũng dẫn đến tham nhũng lan tràn và quyền lực yếu kém. Cuối cùng vào năm 338, Dữu Lương đã cố gắng thuyết phục Si Giám hội quân với ông để phế truất Vương Đạo song sau đó Si Giám đã từ chối, Dữu Lượng đã không thực hiện kế hoạch của mình.

Năm 336, Thành Đế kết hôn với Hoàng hậu Đỗ Lăng Dương. Khi ấy, cả hai đều 15 tuổi.

Năm 337, Mộ Dung Hoảng (慕容皝), tộc trưởng Tiên Ti và là chư hầu của Tấn và được ban cho tước Công tại Liêu Đông, đã xưng làm Yên vương dù Tấn không ban cho ông tước hiệu này, thực tế đây là tuyên bố độc lập và nước Tiền Yên hình thành, mặc dù trên danh nghĩa Mộ Dung Hoảng vẫn coi mình là chư hầu của Tấn.

Năm 339, Dữu Lượng muốn thực hiện một cuộc tấn công lớn chống lại Hậu Triệu, hy vọng có thể lấy lại Hoa Trung, Vương Đạo ban đầu đồng ý với ông ta, song sau đó kế hoạch này bị Si Giám và Sái Mô (蔡謨) phản đối, Thành Đế đã lệnh cho Dữu Lượng không thực hiện kế hoạch chiến tranh. Vương Đạo chết vào mùa thu cùng năm, kế vị là người phụ tá Hà Sung (何充) và em trai của Dữu Lương là Dữu Băng (庾冰). Thành Đế cho Hà Sung và Dữu Băng quyết định các vấn đề quan trọng nhất, song cũng bắt đầu có một số quyết sách riêng của mình. Dữu Băng và Hà Sung cố gắng cải cách các vấn đề dưới sự nhiếp chính của Vương Đạo, song không quá hiệu quả.

Thời kỳ cuối

Sau cái chết của Vương Đạo, Dữu Lượng tiếp tục kế hoạch của mình nhắm tới một chiến dịch chống lại Hậu Triệu, và điều này đã dẫn tới việc Hoàng đế Hậu Triệu là Thạch Hổ (石虎) phản ứng lại vào cuối năm 339. Quân Hậu Triệu gây nên thiệt hại rất lớn cho nhiều thành trì và căn cứ của Tấn ở phía bắc Trường Giang và chiếm được Chu Thành (邾城, nay thuộc Hoàng Cương, Hồ Bắc). Bị làm nhục, Dữu Lượng đã hủy bỏ kế hoạch về một chiến dịch Bắc tiến, ông chết vào đầu năm 340.

Cũng trong năm 340, Mộ Dung Hoảng chính thức yêu cầu được ban cho tước hiệu Yên vương. Sau các tranh cãi kéo dài giữa các đại thần chủ chốt về việc liệu Mộ Dung Hoảng có còn là một chư hầu trung thành hay không, Thành Đế đã quyết định rằng yêu cầu này sẽ được thực hiện.

Vào mùa xuân năm 341, Đỗ Hoàng hậu mất. Thành Đế đã lập một hoàng hậu khác.

Cuối năm đó, Thành Đế lệnh rằng dân lánh nạn từ Hoa Bắc và Hoa Trung đã chạy về phía nam vào thời Hoài Đế và Mẫn Đế, phải đăng ký hộ tịch theo quận đang sống sống chứ không còn được giữ lại hộ tịch tại quận bản quán. Động thái này cho phép các quận địa phương có được nguồn nhân lực lớn hơn và giảm bớt sự dư thừa của các chính quyền địa phương..

Vào mùa hè năm 342, Thành Đế bị bệnh nặng. Ông có hai người con trai là Tư Mã Phi và Tư Mã Dịch, khi ấy vẫn còn trong nôi, với người thiếp Chu quý nhân. Dữu Băng sợ rằng nhà họ Dữu sẽ mất đi quyền lực nếu một vị hoàng đế trẻ được định nên đã thuyết phục Thành Đế rằng trong lúc Đông Tấn đang phải đối mặt với một Hậu Triệu có thế lực mạnh mẽ thì nên chỉ định một vị hoàng đế lớn tuổi hơn. Thành Đế đồng ý và chỉ định em trai mình, Tư Mã Nhạc làm người kế vị bất chấp phản đối từ Hà Sung. Thành Đế đã ban một chiếu thư ủy thác các con trai mình cho Dữu Băng, Hà Sung, Tư Mã Hi (司馬晞), Tư Mã Dục (cả hai đều là thúc phụ), và Gia Cát Khôi (諸葛恢). Sau đó ông qua đời và được truy thụy hiệu là Thành hoàng đế (成皇帝), miếu hiệu là Hiển Tổ (显祖. Người kế vị ông đúng như chỉ định là Nhạc vương.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tấn Thành Đế** () (321 – 26 tháng 7 năm 342), tên thật là **Tư Mã Diễn** (司馬衍), tên tự **Thế Căn** (世根), là vị Hoàng đế thứ 3 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Phế Đế** (, (342 – 23 tháng 11 năm 386), tên thật là **Tư Mã Dịch** (司馬奕), tên tự **Diên Linh** (延齡), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Khang Đế** () (322 – 17 tháng 11 năm 344), tên thật là **Tư Mã Nhạc** (司馬岳), tên tự **Thế Đồng** (世同), là vị Hoàng đế thứ 4 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Ai Đế** () (341 – 30 tháng 3 năm 365), tên thật là **Tư Mã Phi** (司馬丕), tên tự **Thiên Linh** (千齡), là vị Hoàng đế thứ 6 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Huệ Đế** (chữ Hán: 晋惠帝; 259 – 307), tên thật là **Tư Mã Trung** (司馬衷), là vua thứ hai của nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông không có năng lực cai
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
**Tấn Hoài đế** (chữ Hán: 晉懷帝, 284-313), hay **Tấn Hoài vương** (晉懷王), tên thật là **Tư Mã Xí** (司馬熾), tên tự là **Phong Đạc** (豐度), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Tấn trong
**Tấn Mục Đế** () (343 – 10 tháng 7 năm 361), tên thật là **Tư Mã Đam** (司馬聃), tên tự **Bành Tử** (彭子), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Đông Tấn, và là
**Tấn Minh Đế** (晋明帝/晉明帝, bính âm: Jìn Míngdì,) (299 – 18 tháng 10, 325), tên thật là **Tư Mã Thiệu** (司馬紹), tên tự **Đạo Kỳ** (道畿), là vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Đông
**Tấn Nguyên Đế** (chữ Hán: 晉元帝, 276-323), là vị Hoàng đế thứ 6 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị vua đầu tiên của nhà Đông Tấn, ở
**Tấn Mẫn đế** (chữ Hán: 晋愍帝, 300-318), tên thật là **Tư Mã Nghiệp** (司馬鄴), tên tự là **Ngạn Kì** (彥旗) là vị vua thứ năm của nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Gia
**Tấn Cung Đế** () (386–421), tên thật là **Tư Mã Đức Văn** (司馬德文) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Đông Tấn và là Hoàng đế cuối cùng của triều đại Nhà Tấn trong
**_Tàn ngày để lại_** (tựa gốc tiếng Anh: **_The Remains of the Day_**) là một cuốn tiểu thuyết ra mắt năm 1989 được viết bởi tác giả người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro. Nhân vật
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
**Tấn Thành công** (chữ Hán: 晋成公, cai trị: 606 TCN – 600 TCN), tên thật là **Cơ Hắc Đồn** (姬黑臀), là vị vua thứ 27 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**_Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế thứ ba – Lịch sử Đức Quốc Xã_** (nguyên tác tiếng Anh: _The Rise and Fall of the Third Reich: A History of Nazi Germany_) là
**Lý quý nhân** (chữ Hán: 李贵人; ? - 456), là phi tần của Bắc Ngụy Văn Thành Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Bà là sinh mẫu của Bắc Ngụy Hiến
**Thành Đế** (chữ Hán: 成帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách * Xuân Thu Chiến Quốc Thục Thành Đế
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Thiên Tân** (; ), giản xưng **Tân** (津); là một trực hạt thị, đồng thời là thành thị trung tâm quốc gia và thành thị mở cửa ven biển lớn nhất ở phía bắc của
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Hán Canh Thủy Đế** (chữ Hán: 漢更始帝; ? – 25), tên húy **Lưu Huyền** (劉玄), là Hoàng đế nhà Hán giai đoạn giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán. Ông đã tham gia khởi
**Tân Thành** là một phường thuộc tỉnh Cà Mau, Việt Nam. ## Địa lý Phường Tân Thành có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Phong Thạnh *Phía tây giáp phường Lý Văn Lâm
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
nhỏ|Xincheng Zhang in Nan Bu Dang An **Trương Tân Thành** (tiếng Trung: 张新成; bính âm: _Zhāng Xīnchéng_; sinh ngày 24 tháng 8 năm 1995) là diễn viên, ca sĩ người Trung Quốc. Anh được biết
Cà Mau có nhiều làng nghề dệt chiếu truyền thống như: Tân Thành (thành phố Cà Mau), Tân Duyệt (huyện Đầm Dơi), Tân Lộc (huyện Thới Bình)… Từ những nguyên liệu như sợi lác, dây
**Hồ hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后), là hoàng hậu của Bắc Tề Vũ Thành Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Bắc Tề thư và Bắc sử không ghi rõ tên thật của
**Nghi tần Thành thị** (chữ Hán: 宜嬪成氏, Hangul: 의빈성씨; 8 tháng 7 năm 1753 - 14 tháng 9 năm 1786), là một Hậu cung tần ngự thuộc Nội mệnh phụ của Triều Tiên Chính Tổ.
** Tân Thanh ** là một xã miền núi thuộc tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Trụ sở xã nằm cách phường Hoa Lư - trung tâm tỉnh lỵ Ninh Bình33 km về phía Bắc. Theo Nghị
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
Khi quý khách đến tham quan đảo Phú Quốc, nhớ ghé thử nghỉ ngơi ở khách sạn Việt Thành để tận hưởng hương vị của biền xanh và cát trắng, và ngắm nhìn hoàng hôn
Khi quý khách đến tham quan đảo Phú Quốc, nhớ ghé thử nghỉ ngơi ở khách sạn Việt Thành để tận hưởng hương vị của biền xanh và cát trắng, và ngắm nhìn hoàng hôn
**Nguyễn Tấn Thanh** (1921-1999), thường gọi là **Chín Cửu**, bí danh **Hữu Ninh**, là nhà cách mạng Việt Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Châu Hà, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang.
1. Tàn Ngày Để Lại Bìa Cứng Stevens là một quản gia người Anh với tất cả mọi hàm nghĩa của từ này tận tụy, chỉn chu, trung thành, và trên hết, luôn luôn có
**Thành phố Jeju** (_Tế Châu_) là thủ phủ của tỉnh đảo Jeju tại Hàn Quốc và cũng là thành phố lớn nhất trên đảo Jeju. Nhu cầu hàng không của thành phố được Sân bay
**Trịnh Tấn Thành** (sinh năm 1968 tại Đồng Tháp) là một cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Khi còn thi đấu, anh cùng với Huỳnh Quốc Cường là bộ đôi tấn công có
**Ngũ phương thượng đế** trong Đạo Giáo là 5 vị thần cai quản 5 phương hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung) trên mặt đất. Ngoài ra mỗi người còn đại diện cho một màu
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Tản Đà** (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật **Nguyễn Khắc Hiếu** (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
Thành Tân Sở (dựa theo bản vẽ của A.Delvaux) **Thành Tân Sở** hay **Sơn phòng Tân Sở** là tên một tòa thành cổ của nhà Nguyễn; nay thuộc địa phận làng Đốc Kỉnh, xã Cam
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**